SKKN Quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên các trường THPT huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An theo tiếp cận năng lực

doc 96 trang skquanly 26/04/2025 331
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên các trường THPT huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An theo tiếp cận năng lực", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên các trường THPT huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An theo tiếp cận năng lực

SKKN Quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên các trường THPT huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An theo tiếp cận năng lực
 A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
 Giáo dục phổ thông giữ vai trò là động lực thúc đẩy quá trình chuyển đổi 
và phát triển kinh tế, ổn định xã hội. Để thực hiện được bước đột phá mới trong 
giai đoạn hiện nay nhằm đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục phổ thông thì 
quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên phổ thông là nhiệm vụ 
hàng đầu, là trọng tâm trong quản lý nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giáo 
viên, qua đó nâng cao chất lượng dạy và học của nhà trường. Giáo dục phổ 
thông nước ta đang thực hiện bước chuyển từ chương trình giáo dục tiếp cận nội 
dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là từ chỗ quan tâm đến việc 
học sinh học được cái gì đến chỗ quan tâm học sinh vận dụng được cái gì qua 
việc học. Để đảm bảo được điều đó, nhất định phải thực hiện thành công việc 
chuyển từ phương pháp dạy học theo lối "truyền thụ một chiều" sang dạy cách 
học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm 
chất; đồng thời phải chuyển cách đánh giá kết quả giáo dục từ nặng về kiểm tra 
trí nhớ sang kiểm tra, đánh giá năng lực vận dụng kiến thức giải quyết vấn đề, 
coi trọng cả kiểm tra đánh giá kết quả học tập với kiểm tra đánh giá trong quá 
trình học tập để có thể tác động kịp thời nhằm nâng cao chất lượng của các hoạt 
động dạy học và giáo dục.
 Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện 
giáo dục và đào tạo xác định “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ 
bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của 
người học”; “Tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng 
lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho 
học sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, 
truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực 
hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, 
khuyến khích học tập suốt đời”. Theo tinh thần đó, các yếu tố của quá trình giáo 
dục trong nhà trường trung học cần được tiếp cận theo hướng đổi mới.
 Nghị quyết số 44/NQ-CP, ngày 09/6/2014 Ban hành Chương trình hành động 
của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013 
Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về đổi mới căn bản, 
toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa 
trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc 
tế xác định “Đổi mới hình thức, phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả 
giáo dục theo hướng đánh giá năng lực của người học; kết hợp đánh giá cả quá 
trình với đánh giá cuối kỳ học, cuối năm học theo mô hình của các nước có nền 
giáo dục phát triển”.
 Nghị quyết Đại hội đảng lần thứ XII nêu rõ “Tiếp tục đổi mới nội dung giáo 
dục theo hướng tinh giản, hiện đại, thiết thực, phù hợp với lứa tuổi, trình độ và 
 1 - Về chủ thể quản lý: Tập trung nghiên cứu các biện pháp quản lý của Hiệu 
trưởng trường THPT trong quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo 
viên theo tiếp cận năng lực trong bối cảnh chuẩn bị triển khai Chương trình giáo 
dục phổ thông ban hành năm 2018.
- Về địa bàn: Nghiên cứu tại 3 trường THPT huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An.
- Về thời gian: Khảo sát thực trạng và sự cần thiết, tính khả thi của các giải pháp 
đề xuất trong năm học 2019-2020.
4. Phương pháp nghiên cứu
 4.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: Phân tích - tổng hợp, hệ thống hoá 
khái quát hoá, so sánh, mô hình hoá các tài liệu lý luận và các văn bản pháp 
quy có liên quan về quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên 
theo tiếp cận năng lực trong bối cảnh chuẩn bị triển khai Chương trình giáo dục 
phổ thông ban hành năm 2018.
 4.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
 - Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Xây dựng và sử dụng các mẫu 
phiếu điều tra nhằm thu thập thông tin về năng lực của giáo viên, hoạt động bồi 
dưỡng chuyên môn và thực trạng quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho 
giáo viên các trường THPT huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An theo tiếp cận năng 
lực.
 - Phương pháp quan sát: Sử dụng phương pháp này để quan sát các hoạt 
động bồi dưỡng chuyên môn, quản lý của Hiệu trưởng và tổ trưởng/nhóm trưởng 
chuyên môn cho giáo viên trong các nhà trường THPT huyện Quỳ Hợp, tỉnh 
Nghệ An.
 - Phương pháp chuyên gia: Xây dựng mẫu phiếu xin ý kiến các CBQL có 
kinh nghiệm trong quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên các 
trường THPT huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An theo tiếp cận năng lực.
 - Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Tổng kết các kinh nghiệm của các 
nhà quản lý và CBQL Sở GD&ĐT và các trường THPT trên địa bàn huyện Quỳ 
Hợp, tỉnh Nghệ An trong quá trình quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn và 
quản lý nhà trường.
4.3. Phương pháp thống kê toán học: Dùng phương pháp toán học để phân tích, 
xử lý số liệu điều tra thu được.
 3 Theo Komensky, dạy học thế nào để giúp người học thích thú học tập và có 
những cố gắng bản thân để nắm lấy tri thức. Ông nói: Tôi thường BD cho HS 
của tôi tinh thần độc lập trong quan sát, trong đàm thoại và trong việc ứng dụng 
tri thức vào thực tiễn, ông cho rằng: GD có mục đích đánh thức năng lực nhạy 
cảm, phán đoán đúng đắn, phát triển nhân cách  Hãy tìm ra phương pháp cho 
GV dạy ít hơn, HS được học nhiều hơn, GV đến trường để HS hỏi chứ không 
phải GV đến trường chỉ để hỏi học trò.
 Sự phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh toàn cầu hóa đặt ra những yêu 
cầu mới đối với người lao động. Vì vậy cũng đặt ra những yêu cầu mới cho sự 
nghiệp GD, đào tạo nguồn nhân lực. Để thoát khỏi sự tụt hậu, để theo kịp yêu 
cầu về thị trường lao động Việt Nam cũng phải đón nhận và tích cực đổi mới. 
Tại nghị Quyết Hội nghị TW VIII khóa XI/2011 về đổi mới căn bản toàn diện 
GD&ĐT nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng hiện 
đại, phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng 
người học. Khắc phục lối truyền thụ một chiều, ghi nhớ máy móc, tập trung dạy 
cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và 
đổi mới tri thức, kỹ năng phát triển năng lực”. Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 
04/11/2013 cũng khẳng định: “lấy việc hình thành năng lực làm trung tâm làm 
mục tiêu đào tạo thay cho truyền thụ kiến thức”.
Có thể nói dạy học theo tiếp cận năng lực là một xu thế tất yếu mà trước hết việc 
trang bị năng lực sư phạm cho GV là việc làm tiên phong và nghiêm túc, được 
một số nhà sư phạm đã đánh giá qua quá trình nghiên cứu:
Peter A.Hall và Alisa trong “Hình thành khả năng thành công cho giáo viên” 
(Building Teachers’s Capacity for Success) khẳng định: trong giáo dục, năng lực 
của giáo viên là sức mạnh quan trọng nhất hay giáo viên được xem là chìa khóa 
quan trọng của chất lượng và sự thành công trong giáo dục ở bất kỳ xã hội nào.
Về năng lực sư phạm của giáo viên, Ernesto Cuadra và Juan Manuel Moreno 
cùng cộng sự (World Bank 2005) đề xuất một bộ năng lực GV, gồm 3 nhóm 
năng lực với 12 năng lực cơ bản: nhóm năng lực trong lĩnh vực nghề nghiệp, 
nhóm năng lực trong lĩnh vực nghề nghiệp, nhóm năng lực trong lĩnh vực dạy 
học, nhóm năng lực trong lĩnh vực trường học.
Tác giả Nguyễn Thị Bình trong báo cáo tổng kết đề tài độc lập cấp nhà nước: 
“Nghiên cứu đề xuất các giải pháp cải cách công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo 
viên phổ thông”, cho rằng, GV phổ thông cần phải có những năng lực nghề 
nghiệp gồm: năng lực tìm hiểu học sinh và môi trường giáo dục, năng lực giáo 
dục nhằm phát triển toàn diện nhân cách học sinh, năng lực dạy học môn học 
trong chương trình giáo dục, năng lực giao tiếp để thực hiện tốt nhiệm vụ dạy 
học và giáo dục, năng lực đánh giá trong giáo dục, năng lực hoạt động xã hội, 
năng lực phát triển nghề nghiệp.
 5 - Theo từ điển tiếng Việt thông dụng: Xét về kiến thức nghiệp vụ, bồi dưỡng là 
làm cho tốt hơn, giỏi hơn.
Nghị định 18/2010 NĐ-CP ngày 05/03/2010 của Chính phủ khẳng định: “BD là 
hoạt động trang bị, cập nhật, nâng cao kiến thức, kỹ năng làm việc”.
Tác giả Trương Chính viết “Bồi dưỡng là rèn luyện thêm cho những người vốn 
có khả năng trở thành những người giỏi hơn”.
Theo một cách tổng quát, BD là quá trình nâng cao năng lực làm việc của người 
lao động thông qua việc bổ sung, trang bị kiến thức, kỹ năng, thái độ mới, đáp 
ứng yêu cầu nghề nghiệp và vị trí việc làm của họ. Thực chất của quá trình BD 
là để bổ sung, cập nhật kiến thức và kỹ năng còn thiếu hoặc lạc hậu nhằm nâng 
cao trình độ, phát triển thêm năng lực trong một lĩnh vực hoặc hoạt động CM, 
đồng thời nhằm mở mang và nâng cao tri thức, kỹ năng, kỹ xảo CM đã có sẵn, 
giúp cho công việc đang làm đạt hiệu quả tốt hơn.
1.2.2.2. Bồi dưỡng chuyên môn
“Bồi dưỡng chuyên môn” là BD kiến thức, kỹ năng tay nghề, năng lực mới, 
chuyên sâu hay nâng cao của một ngành khoa học, kỹ thuật nào đấy.
BDCM cho GV là các hoạt động giúp GV cập nhật kiến thức mới, chuyên sâu 
hay nâng cao năng lực về dạy học và GD theo yêu cầu của ngành học, bậc học, 
của xã hội và thời đại. Hoạt động BDCM đối với một GV là thường xuyên, liên 
tục trong quá trình hoạt động nghề nghiệp của người GV, kế thừa và phát triển 
những năng lực đã được hình thành trước đây; GV là chủ thể là đối tượng được 
BD hoặc chủ động tự BD, tự học trong quá trình BDCM.
Đối với GV THPT, BDCM là giúp GV nắm vững hay lĩnh hội thêm những kiến 
thức khoa học cơ bản, khoa học chuyên ngành, khoa học sư phạm có liên quan, 
phát tiển năng lực dạy học các môn học trong chương trình THPT để họ đáp ứng 
tốt hơn các yêu cầu của đối tượng HS, yêu cầu đổi mới GD của cấp học, bậc 
học.
1.2.3. Năng lực và tiếp cận năng lực
 Chương trình giáo dục định hướng năng lực (định hướng phát triển năng 
lực) nay còn gọi là dạy học định hướng kết quả đầu ra được bàn đến nhiều từ 
những năm 90 của thế kỷ 20 và ngày nay đã trở thành xu hướng giáo dục quốc 
tế. Giáo dục định hướng năng lực nhằm mục tiêu phát triển năng lực người học. 
 Giáo dục định hướng năng lực nhằm đảm bảo chất lượng đầu ra của việc 
dạy học, thực hiện mục tiêu phát triển toàn diện các phẩm chất nhân cách, chú 
trọng năng lực vận dụng tri thức trong những tình huống thực tiễn nhằm chuẩn 
bị cho con người năng lực giải quyết các tình huống của cuộc sống và nghề 
nghiệp. Chương trình này nhấn mạnh vai trò của người học với tư cách chủ thể 
của quá trình nhận thức.
 7 dạng hoạt động nhất định dựa vào những thuộc tính cá nhân (sinh học, tâm lý và 
giá trị xã hội) được thực hiện tự giác và dẫn đến kết quả phù hợp với trình độ 
thực tế của hoạt động”.
 Trong chương trình dạy học định hướng phát triển năng lực, khái niệm 
năng lực được sử dụng như sau:
 - Năng lực liên quan đến bình diện mục tiêu của dạy học: mục tiêu dạy 
học được mô tả thông qua các năng lực cần hình thành;
 - Trong các môn học, những nội dung và hoạt động cơ bản được liên kết 
với nhau nhằm hình thành các năng lực;
 - Năng lực là sự kết nối tri thức, hiểu biết, khả năng, mong muốn...;
 - Mục tiêu hình thành năng lực định hướng cho việc lựa chọn, đánh giá 
mức độ quan trọng và cấu trúc hóa các nội dung và hoạt động và hành động dạy 
học về mặt phương pháp;
 - Năng lực mô tả việc giải quyết những đòi hỏi về nội dung trong các tình 
huống: ví dụ như đọc một văn bản cụ thể ... Nắm vững và vận dụng được các 
phép tính cơ bản ...;
 - Các năng lực chung cùng với các năng lực chuyên môn tạo thành nền 
tảng chung cho công việc giáo dục và dạy học;
 - Mức độ đối với sự phát triển năng lực có thể được xác định trong các 
chuẩn: Đến một thời điểm nhất định nào đó, học sinh có thể/phải đạt được 
những gì?
Như vậy, có thể thấy dù cách phát biểu có khác nhau, nhưng các cách hiểu trên 
đều khẳng định: Năng lực là khả năng làm chủ những hệ thống kiến thức, kỹ 
năng, thái độ và vận hành (kết nối) chúng một cách hợp lý vào thực hiện thành 
công nhiệm vụ hoặc giải quyết hiệu quả vấn đề đặt ra của cuộc sống
1.2.3.2. Tiếp cận năng lực
Theo Đặng Thành Hưng “GD theo tiếp cận năng lực” là kiểu GD có 2 mặt:
1/ Xem năng lực là mục tiêu đào tạo, là kết quả GD;
2/ Xem năng lực là nền tảng, là chỗ dựa của GD, tức là GD phải dựa vào năng 
lực người học, đặc biệt là kinh nghiệm nền tảng và kinh nghiệm thường trực 
được huy động thuộc vùng cận phát triển (L.X. Vygotsky).
 Thứ nhất, dựa trên quan điểm này có thể hiểu rằng muốn GD theo tiếp cận 
năng lực trước hết cần xác định mục tiêu GD/kết quả GD dưới dạng năng lực. 
Năng lực thể hiện rõ ràng dựa trên kết quả mà người học giải quyết các vấn đề 
thực tiễn, lúc này tri thức không còn ở dạng lý thuyết mà chính là điều kiện cần 
thiết để người ta thực hiện được dạng hoạt động nào đó trên thực tế. GD theo 
tiếp cận năng lực tránh được lối giáo dục rao giảng, giáo điều, nói được nhưng 
 9

File đính kèm:

  • docskkn_quan_ly_hoat_dong_boi_duong_chuyen_mon_cho_giao_vien_ca.doc