SKKN Phát triển năng lực tự học, giao tiếp và định hướng nghề nghiệp cho học sinh DT Đan Lai ở trường THPT Mường Quạ thông qua công tác chủ nhiệm
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Phát triển năng lực tự học, giao tiếp và định hướng nghề nghiệp cho học sinh DT Đan Lai ở trường THPT Mường Quạ thông qua công tác chủ nhiệm", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Phát triển năng lực tự học, giao tiếp và định hướng nghề nghiệp cho học sinh DT Đan Lai ở trường THPT Mường Quạ thông qua công tác chủ nhiệm

Phần I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lí do chọn đề tài Theo tinh thần của Nghị Quyết số 29 - NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng về việc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đó là “.. .Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất của người học”. Trong những năm gần đây, chương trình giáo dục định hướng phát triển năng lực nay còn gọi là dạy học định hướng kết quả đầu ra được bàn đến và đã trở thành xu hướng chung của toàn ngành giáo dục. Giáo dục định hướng phát triển năng lực nhằm mục tiêu phát triển năng lực người học. Phương pháp dạy học theo quan điểm phát triển năng lực không chỉ chú ý tích cực hóa học sinh về mặt trí tuệ mà còn chú ý rèn luyện năng lực giải quyết vấn đề gắn với những tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp. Đây là một yếu tố quan trọng giúp cho học sinh hình thành được những kĩ năng sống cơ bản và cần thiết để xử lý được những tình huống đặt ra trong cuộc sống hàng ngày. Trường THPT Mường Quạ đứng chân trên địa bàn xã Môn Sơn huyện Con Cuông, tuyển sinh ở hai xã Môn Sơn và Lục Dạ, là một trong hai trường THPT trên địa bàn tỉnh Nghệ An có học sinh dân tộc ít người Đan Lai. Với đặc thù của đồng bào là sống ở vùng lõi của vườn Quốc gia Pù Mát (thuộc huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An), giao thông đi lại không thuận tiện, đời sống kinh tế khó khăn, điều kiện giao lưu, tiếp xúc với vùng phát triển còn nhiều hạn chế, do đó phần lớn con em của đồng bào nơi đây ít được đi học hoặc nếu đi học thì cũng chỉ học hết cấp 1 hoặc cấp 2 là lập gia đình. Năm 2006, thực hiện Đề án của Chính phủ về bảo tồn, phát triển bền vững dân tộc Đan Lai tại vùng lõi Vườn quốc gia Pù Mát, đời sống kinh tế của đồng bào có nhiều chuyển biến tích cực, công tác giáo dục được đẩy mạnh. Từ đó đến nay đã có hàng chục em tốt nghiệp THPT. Tuy nhiên, trong những năm qua một thực trạng chung của các em học sinh Đan Lai là chưa mạnh dạn trong giao tiếp, khả năng tự học, tự làm việc chưa cao và nhận thức việc học là chỉ để có bằng tốt nghiệp. Qua nhiều năm công tác tại trường, chúng tôi nhận thấy việc giáo dục các em học sinh Đan Lai nhận thức đúng đắn việc học tập, giúp các em biết ước mơ và vươn mình trong xã hội hiện đại là một nhiệm vụ quan trọng và cũng rất cấp thiết, vì vậy chúng tôi chọn đề tài “PHẢT TRIỂN NĂNG Lực Tự HỌC, GIAO TIẾP VA ĐỊNH HƯỚNG NGHỀ NGHIỆP CHO HỌC SINH DẦN TỘC ĐAN LAI Ở TRƯỜNG THPT MƯỜNG QUẠ THÔNG QUA CÔNG TẢC CHỦ NHIỆM” để nghiên cứu. 2. Mục đích nghiên cứu Tiến hành thực hiện đề tài này, chúng tôi mong muốn sẽ hiểu biết nhiều hơn đời sống tâm lí của học sinh Đan Lai; nắm bắt được những nguyện vọng, hiểu được những khó khăn mà các em gặp phải trong quá trình học tập để có những giải - Phương pháp thực nghiệm: Tổ chức tiến hành thực nghiệm theo hướng phát triển tự học, năng lực giao tiếp cho học sinh. 7. Dự kiến đóng góp của đề tài - Tính mới: Đề tài đã đưa ra các giải pháp phát triển năng lực tự học, giao tiếp cho đối tượng học sinh dân tộc Đan Lai thông qua các hoạt động công tác chủ nhiệm của giáo viên. - Tính hiệu quả: Đề tài đã khắc phục được tình trạng học sinh chán học dẫn đến lười học; học tập không có mục tiêu; chán thậm chí là sợ tiết sinh hoạt lớp cuối tuần. Thay vào đó học sinh có hứng thú và tham gia tích cực các hoạt động của buổi sinh hoạt lớp, có ý thức tự giác trong học tập và xác định đúng đắn mục tiêu cho bản thân sau này. Phần II. NỘI DUNG I.CƠ SỞ LÍ LUẬN 1. Khái niệm năng lực và định hướng nghề nghiệp a) Năng lực tự học: Nhà tâm lí học N.A.Rubakin xem quá trình tự tìm lấy kiến thức có nghĩa là tự học. Tự học là quá trình lĩnh hội tri thức, kinh nghiệm xã hội, lịch sử trong thực tiễn hoạt động cá nhân bằng cách thiết lập các mối quan hệ cải tiến kinh nghiệm ban đầu, đối chiếu với các mô hình phản ánh hoàn cảnh thực tại, biến tri thức của loài người thành vốn tri thức, kinh nghiệm, kĩ năng, kỹ xảo của chủ thể. Theo Đặng Vũ Hoạt và Hà Thị Đức: “Tự học là một hình thức nhận thức của cá n h ân, n h am nam vững h ệ th ổng tri th ức và kĩ n ăng do ch ỉn h người h ọ c tự tiến hành ở trên lớp hoặc ở ngoài lớp, theo hoặc không theo chương trình và sách giáo khoa đã được qui định ”. Tự học thể hiện bằng cách tự đọc tài liệu giáo khoa, sách báo các loại, nghe radio, truyền hình, nghe nói chuyện, báo cáo, tham quan bảo tàng, triển lãm, xem phim, kịch, giao tiếp với những người có học, với các chuyên gia và những người hoạt động thực tiễn trong các lĩnh vực khác nhau. Người tự học phải biết cách lựa chọn tài liệu, tìm ra những điểm chính, điểm quan trọng trong các tài liệu đã đọc, đã nghe, phải biết cách ghi chép những điều cần thiết, biết viết tóm tắt và làm đề cương, biết cách tra cứu từ điển và sách tham khảo, biết cách làm việc trong thư viện,... tự học đòi hỏi phải có tính độc lập, tự chủ, tự giác và kiên trì cao. Tự học là một giải pháp khoa học giúp giải quyết mâu thuẫn giữa khối lượng kiến thức đồ sộ với quỹ thời gian không nhiều khi học ở nhà trường. Tự học giúp tạo ra tri thức bền vững cho mỗ i người bởi lẽ nó là kết quả của sự hứng thú, sự tìm tòi, nghiên cứu và lựa chọn. b) Năng lực giao tiếp * Khái niệm: + Nhận biết và thấu cảm được suy nghĩ, tình cảm, thái độ của người khác. + Xác định đúng nguyên nhân mâu thuẫn giữa bản thân với người khác hoặc giữa những người khác với nhau và biết cách hoá giải mâu thuẫn. c) Định hướng nghề nghiệp là gì? Định hướng nghề nghiệp là tổng hợp những việc giúp học sinh xác định được mục tiêu nghề nghiệp trong tương lai. Việc lựa chọn nghề nghiệp trong tương lai rất quan trọng ảnh hưởng đến sự thành công hay thất bại của mỗi người. Nếu định hướng sai nghề nghiệp sẽ gây ra rất nhiều khó khăn bất lợi cũng như sẽ khiến bạn mãi lạc lối trong mê cung nghề nghiệp do chính bạn tạo ra. 2. Vai trò của năng lực tự học, năng lực giao tiếp và định hướng nghề nghiệp - Vai trò của năng lực tự học: Có phương pháp tự học tốt sẽ đem lại kết quả học tập cao hơn. Khi học sinh biết cách tự học, họ sẽ có ý thức và xây dựng thời gian tự học, tự nghiên cứu giáo trình, tài liệu, gắn lí thuyết với thực hành, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo. Tự học của học sinh trung học phổ thông còn có vai trò quan trọng đối với yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng đào tạo tại các trường phổ thông. Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa người học sẽ phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của người học trong việc lĩnh hội tri thức khoa học. Vì vậy, tự học chính là con đường phát triển phù hợp với quy luật tiến hóa của nhân loại và là biện pháp sư phạm đúng đắn cần được phát huy ở các trường phổ thông. Theo phương châm học suốt đời thì việc “tự học” lại càng có ý nghĩa đặc biệt đối với học sinh trung học phổ thông. Vì nếu không có khả năng và phương pháp tự học, tự nghiên cứu thì khi lên đến các bậc học cao hơn như cao đẳng, đại học, sau đại học,... học sinh sẽ khó thích ứng do đó khó có thể thu được một kết quả học tập và nghiên cứu tốt. Hơn thế nữa, nếu không có khả năng tự học thì chúng ta không thể đáp ứng được phương châm “Học suốt đời” mà Hội đồng quốc tế về giáo dục đã đề ra vào tháng 4 năm 1996. - Vai trò của giao tiếp với đời sống cá nhân: Giao tiếp là điều kiện để tâm lí, nhân cách cá nhân phát triển bình thường. Về bản chất, con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội, gia nhập vào cộng đồng, phản ánh các quan hệ xã hội, kinh nghiệm xã hội và chuyển chúng thành tài sản của riêng mình. Trong giao tiếp nhiều phẩm chất của con người, đặc biệt là các phẩm chất đạo đức được hình thành và phát triển. Trong quá trình tiếp xúc với những người xung quanh, chúng ta nhận thức được các phẩm chất đạo đức, thẩm mỹ, pháp luật, tồn tại trong xã hội, tức là những nguyên tắc ứng xử: chúng ta biết được cái gì tốt, cái gì xấu, cái gì cần làm và cái gì không nên làm từ đó thể hiện cho học sinh. Học sinh THPT là lứa tuổi mà tâm sinh lí có nhiều sự thay đổi. Vì thế, hoạt động chủ nhiệm lớp của giáo viên càng cần thiết hơn, nhằm : + Hình thành những kĩ năng giao tiếp, kĩ năng tham gia các hoạt động tập thể, kĩ năng tổ chức các hoạt động cùng nhau, .nâng cao ý thức tự chủ, tự tin, chủ động và mạnh dạn,. để từ đó các em tham gia vào các hoạt động học tập một cách có hiệu quả. Qua đó, phát triển năng lực tự học, giao tiếp cho mỗ i học sinh. + Góp phần bồi dưỡng cho học sinh tình yêu quê hương, đất nước, người thân, bạn bè,. Có ý thức tôn trọng và ứng xử tốt với mọi người xung quanh, sống hoà nhã, sẵn sàng giúp đỡ người khác, tích cực tham gia vào các công việc chung ; ý thức xây dựng môi trường sống thân thiện trong lớp học, trường học, ở gia đình và ngoài xã hội ; ý thức chấp hành tốt những nội quy, quy định của pháp luật, các chuẩn mực đạo đức,. khi tham gia vào các hoạt động như học tập, vui chơi, giải trí hoặc các hoạt động xã hội khác ở bất cứ nơi nào. + Góp phần củng cố tri thức đã học ở trên lớp đồng thời mở rộng các tri thức về tự nhiên, xã hội, con người,.mà bài học trên lớp chưa có điều kiện và thời gian mở rộng. Mặc khác, thực hiện tốt công tác chủ nhiệm lớp là trong đó đã xây dựng được một lớp học có nề nếp, có thói quen học tập tốt, phát huy được tính chủ động, tích cực học tập của học sinh, góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay nhằm nâng cao chất lượng học tập của học sinh “Nề nếp là mẹ đẻ của chất lượng”. II. THỰC TRẠNG CỦA ĐỀ TÀI 1. Thực trạng a) Thực trạng hiện nay về về năng tự học, giao tiếp của học sinh ở trong các nhà trường THPT nói chung và học sinh dân tộc Đan Lai ở trường THPT Mường Quạ nói riêng Trong xã hội hiện đại ngày nay, với xu thế hội nhập quốc tế, năng lực tự học và giao tiếp có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển và thành công của m i người. Tuy nhiên, những năng lực nêu trên đang là vấn đề đáng lo ngại của giới trẻ hiện nay nói chung và học sinh nói riêng đặc biệt là học sinh miền núi, vùng có con em của đồng bào các dân tộc thiểu số. Nếu như ở các trung tâm thành phố hay các huyện đồng bằng miền xuôi, học sinh tự tìm hiểu và trình bày một chủ đề trong buổi ngoại khóa bằng nhiều ngoại ngữ là một việc hết sức bình thường thì ở miền núi, nếu làm được điều đó được xem là một hiện tượng. Thực tế trong các trường phổ thông ở các huyện miền núi hiện nay, mặc dù các hoạt động giáo dục hướng tới phát triển các năng lực được đẩy mạnh, tuy nhiên do ảnh hưởng của nhiều yếu tố nên kỹ năng sống nói chung và năng lực tự học, giao tiếp của học sinh còn nhiều hạn chế. Đối với học sinh dân tộc Đan lai, điều này lại khó khăn hơn rất nhiều so với các em học sinh khác. Trong giao tiếp với những người xung quanh, các em rụt rè, thiếu tự tin, thiếu câu thưa gửi, thiếu lời cảm ơn. Các em không biết xưng hô với người trên, dưới sao cho phải lẽ, dẫn đến xảy ra mâu thuẫn trong mối quan hệ Nội dung sinh Chú trọng đánh giá Tùy thuộc vào kế hoạt lớp Đánh giá, nhận x t, triển nhận x t, xử lí vi khai kế hoạch nhưng hoạch nhà trường mà phạm, triển khai kế chú trọng giáo dục kỹ triển khai nội dung hoạch năng sống cho học sinh sinh hoạt 48/60 = 80% 7/60 = 11,7% 5/60 = 8,3% 2. Nguyên nhân a) Do ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông thông minh Thời đại công nghệ 4.0 mang đến cho con người chúng ta sự tiện lợi trong công việc và trong đời sống. Nhờ có các phương tiện thông minh mà chúng ta trao đổi và nhận thông tin một cách nhanh chóng, tiết kiệm được cả về thời gian và tiền bạc. Nhưng mặt trái của nó cũng tác động không nhỏ tới con người, nhất là học sinh. Với đặc điểm tâm lí lứa tuổi là thích khám phá, nhiều em học sinh đã lạm dụng quá mức việc sử dụng điện thoại vào những việc ngoài học tập như chơi game, xem các video clip, lướt facebook, chát zalo, messenger... nhiều em đã rơi vào trạng thái nghiện điện thoại, lơ là việc học tập, không thích giao tiếp với người xung quanh, thậm chí đã có trường hợp bị trầm cảm hoặc mất cân bằng về tâm sinh lí. b) Sự thiếu quan tâm của các bậc phụ huynh tới con em Học sinh miền núi Nghệ An, phần lớn bố mẹ làm nông nghiệp, buôn bán hoặc là công nhân của các công ty, xí nghiệp. Cuộc sống mưu sinh nên các bậc phụ huynh chủ yếu đi làm xa nhà, để các em ở nhà với ông bà hoặc tự ở nhà, tự lo, tự chăm sóc bản thân. Cuộc sống hàng ngày của các em thiếu đi sinh hoạt truyền thống của gia đình, như cùng ngồi ăn cơm, cùng ngồi xem tivi nói chuyện, gia đình sum họp sau m i buổi chiều xuống. Thiếu đi những lời dạy bảo của cha mẹ về đối nhân xử thế, về ứng xử hàng ngày với những người xung quanh và đặc biệt thiếu đi sự chăm lo cho con học tập. Thay vào đó các em lại học trên mạng xã hội những cử chỉ, hành động, những lời nói của những “anh hùng” ảo như Khá Bảnh, Huấn Hoa Hồng... thiếu sự giám sát và định hướng của phụ huynh. c)Đặc điểm về địa lí, dân tộc cũng ảnh hưởng không nhỏ tới năng lực tự học, giao tiếp và lựa chọn nghề nghiệp Với đặc thù của đồng bào dân tộc Đan Lai là sinh sống ở vùng lõi của vườn quốc gia Pù Mát ( Bản Búng, bản Cò Phạt xã Môn Sơn, huyện Con Cuông, Nghệ An) cách trung tâm xã từ 20 km đến 30 km, giao thông đi lại rất khó khăn, chủ yếu là đi bộ. Với phong tục và văn hóa của đồng bào nơi đây họ sinh sống kh p kín, ít giao lưu với các vùng miền và cộng đồng khác. Đời sống kinh tế còn hết sức khó khăn, văn hóa còn lạc hậu. Nhận thức về việc học của phụ huynh còn nhiều hạn chế, dẫn đến con cái (học sinh Đan Lai) cũng nhác học, tham gia các hoạt động giáo dục mang tính đối phó, trong suy nghĩ của các em lúc nào cũng chỉ “Bỏ học
File đính kèm:
skkn_phat_trien_nang_luc_tu_hoc_giao_tiep_va_dinh_huong_nghe.docx
SKKN Phát triển năng lực tự học, giao tiếp và định hướng nghề nghiệp cho học sinh DT Đan Lai ở trườn.pdf