SKKN Một số kinh nghiệm chỉ đạo nâng cao chất lượng dạy học cho học sinh dân tộc thiểu số Lớp 1, 2 của trường tiểu học Lê Hồng Phong

doc 27 trang skquanly 04/04/2025 90
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số kinh nghiệm chỉ đạo nâng cao chất lượng dạy học cho học sinh dân tộc thiểu số Lớp 1, 2 của trường tiểu học Lê Hồng Phong", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số kinh nghiệm chỉ đạo nâng cao chất lượng dạy học cho học sinh dân tộc thiểu số Lớp 1, 2 của trường tiểu học Lê Hồng Phong

SKKN Một số kinh nghiệm chỉ đạo nâng cao chất lượng dạy học cho học sinh dân tộc thiểu số Lớp 1, 2 của trường tiểu học Lê Hồng Phong
 I. PH￿N MỞ Đ￿U
 1. Lý do chọn đề tài
 Năm học 2016 - 2017 là năm học tiếp tục triển khai Chương trình hành 
động của Bộ GDĐT; thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của 
Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và 
đào tạo; Nghị quyết số 88/2014/QH13 ngày 28/11/2014 của Quốc hội về đổi 
mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông; Quyết định số 404/QĐ-
TTg ngày 27/3/2015 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án đổi mới 
chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông. Nâng cao chất lượng giáo dục 
và đào tạo đối với học sinh dân tộc thiểu số là vấn đề quan trọng nhằm nâng cao 
dân trí, góp phần ổn định cuộc sống của đồng bào dân tộc thiểu số; rút ngắn 
khoảng cách chất lượng giữa học sinh dân tộc thiểu số với học sinh vùng thuận 
lợi theo hướng phát triển chất lượng nhằm tăng tỷ lệ học sinh Hoàn thành và 
Hoàn thành tốt nội dung học tập các môn học của lớp học, giảm tỷ lệ học sinh 
chưa hoàn thành nội dung các môn học và lớp học, đào tạo bồi dưỡng học sinh 
“mũi nhọn” trong các lớp học của cấp học, nhằm góp phần đào tạo nguồn nhân 
lực đáp ứng thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. 
 Học sinh dân tộc thiểu số có nhiều đặc thù riêng về hoàn cảnh sống và tư 
duy suy nghĩ. Làm thế nào để chất lượng dạy và học được nâng cao? Làm thế 
nào để đào tạo ra những con người có tri thức, có nhân cách, những người có đủ 
“đức, trí, thể, mĩ”?. Đó vẫn còn là một câu hỏi, khó có lời giải trọn vẹn.
 Là một cán bộ quản lý chuyên môn của nhà trường, trong quá trình giảng 
dạy và công tác bản thân tôi thường xuyên trăn trở, suy nghĩ tìm mọi cách để 
cùng tập thể sư phạm nhà trường và lãnh đạo địa phương từng bước tháo gỡ khó 
khăn, khai thác các điều kiện thuận lợi và các nguồn lực để áp dụng vào thực tế 
nhà trường, nhằm không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục. Tuy nhiên do 
điều kiện còn khó khăn nên trong những năm vừa qua chất lượng của học sinh 
dân tộc ở hai điểm trường lẻ có nhiều học sinh dân tộc thiểu số còn thấp so với 
điểm trường chính. Vì vậy kết thúc mỗi năm học, tỷ lệ học sinh chưa hoàn thành 
 1 a. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
 b. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
 c. Phương pháp thống kê toán học
 II. PH￿N N￿I DUNG
 1. Cơ sở lý luận.
 Quyết định số 2123/QĐ-TTg ngày 22/11/2010 của Thủ tướng Chính phủ 
phê duyệt Đề án Phát triển giáo dục đối với các dân tộc rất ít người giai đoạn 
2010-2015; Thực hiện công bằng trong xã hội và một số chính sách miễn, giảm 
học phí, cấp học bổng, cho vay đi học. Nghị quyết 40/2002/NQ-QH của Quốc 
Hội khóa IX về đổi mới giáo dục phổ thông nói về việc nâng cao chất lượng 
giáo dục cũng đã khẳng định: tiếng Việt là ngôn ngữ phổ thông được đưa vào 
dạy học thống nhất trong hệ thống giáo dục quốc dân. Tiếng Việt trong nhà 
trường tồn tại với hai tư cách: vừa là một môn học vừa là công cụ giao tiếp, học 
tập của học sinh. Do đó, trình độ tiếng Việt (vốn từ, kiến thức về tiếng Việt và 
kỹ năng sử dụng vốn từ trong học tập, giao tiếp) có vai trò và ảnh hưởng rất 
quan trọng đối với khả năng học tập các môn học của học sinh ( các em có học 
tốt môn tiếng Việt thì mới học tốt được các môn học khác). Thực tế cho thấy, 
học sinh người dân tộc thiểu số càng học lên lớp trên thì khả năng đạt chuẩn 
chương trình các môn học càng thấp vì nhiều nguyên nhân như cơ sở vật chất, 
trang thiết bị, điều kiện kinh tế, điều kiện học tập, trình độ nhận thức... trong đó, 
sự thiếu hụt về vốn sống, vốn ngôn ngữ là nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp của 
tình trạng trên. 
 Trong những năm vừa qua, Giáo dục học sinh dân tộc thiểu số ở xã Eana 
đã và đang được địa phương quan tâm, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang 
thiết bị phục vụ cho dạy và học. Bộ Giáo dục - Đào tạo đã có rất nhiều thay đổi 
về khung thời gian, chương trình, sách giáo khoa đối với học sinh dân tộc thiểu 
số, tăng thời lượng môn tiếng Việt, giảm tải chương trình sách giáo khoa; soạn 
thảo chương trình sách giáo khoa tiếng dân tộc... Dự án giáo dục cho trẻ em có 
hoàn cảnh khó khăn (PEDC) đã hỗ trợ xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang 
 3 dùng, thiết bị dạy học còn gặp khó khăn nên ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng 
giảng dạy.
 Trong những năm học vừa qua, nhà trường đã cố gắng tìm nhiều giải pháp 
để nâng cao chất lượng giáo dục như đổi mới phương pháp dạy, hình thức học; 
dạy phân hóa đối tượng học sinh; tăng thời lượng một số môn học cơ bản như 
Toán, tiếng Việt; tăng cường phụ đạo học sinh yếu; tổ chức các hình thức học 
tập như học theo nhóm, đôi bạn cùng tiến, điều chỉnh thời lượng cho các tiết học 
Toán và Tiếng Việt nhưng chất lượng vẫn chưa được như mong muốn vì rất 
nhiều nguyên nhân trong đó vốn tiếng Việt của học sinh còn rất hạn chế. Học 
sinh sau khi lên lớp lại có tình trạng đọc chưa thông, viết chưa thạo vì sau kỳ 
nghỉ hè các em về với gia đình việc giao tiếp hàng ngày của các em bằng tiếng 
mẹ đẻ nên ít vốn tiếng Việt học ở trường của các em rất dễ quên do không được 
giao tiếp trong 2 tháng hè; tỷ lệ lưu ban sau mỗi năm học vẫn còn... Do đó trong 
thời gian nghỉ hè các em đã quên khá nhiều kiến thức trong đó đặc biệt quan 
trọng là quên việc đọc, viết và làm toán dẫn đến tình trạng nhiều học sinh vào 
năm học mới học các môn học khác rất khó khăn. 
 Tỷ lệ học sinh đến lớp Mẫu giáo trên địa bàn của trường tuyển sinh đạt 
khoảng 99% trẻ trong độ tuổi. Trong đó học sinh dân tộc thiểu số đạt tỷ lệ 98 % 
(do một số em cha mẹ đi làm ăn xa các em ở với ông bà đã già và người thân 
nên chưa ra lớp mẫu giáo). Đây là một trong những khó khăn lớn nhất của nhà 
trường khi tiếp nhận các em chưa ra lớp Mẫu giáo vào học lớp Một. Những em 
này hầu như chưa biết và giao tiếp được bằng tiếng Việt. Trong số học sinh qua 
Mẫu giáo thì việc giao tiếp bằng tiếng Việt của các em vẫn hết sức khó khăn. Tỷ 
lệ học sinh có thể hỏi, trả lời và hiểu được những yêu cầu của giáo viên chỉ 
chiếm 20- 35 % trong số những em đã qua Mẫu giáo hoặc những học sinh lưu 
ban. Các em chỉ nghe và hiểu được những câu lệnh đơn giản như "trật tự", "ra 
chơi", "vào lớp", "ra về"...Việc giảng dạy mang tính áp đặt, khô khan do giáo 
viên “tham” và sợ nên cố truyền đạt những kiến thức có trong sách giáo khoa mà 
không giành thời gian để tạo ra sự hứng thú cho học sinh trong học tập là một 
hạn chế rất lớn trong quá trình tiếp thu kiến thức của học sinh đặc biệt là đối với 
 5 * Làm tốt công tác nâng cao nhận thức, tư tưởng cho đội ngũ
 Lãnh đạo trường phối hợp với Công đoàn thường xuyên quán triệt tư 
tưởng cho cán bộ giáo viên phát huy tinh thần tự giác, lòng nhiệt huyết, nâng 
cao ý thức trách nhiệm của mỗi cá nhân trong công tác; kịp thời phổ biến các 
văn bản chỉ đạo của cấp trên về triển khai thực hiện nhiệm vụ năm học. Nắm bắt 
tâm tư, nguyện vọng của giáo viên, nhân viên và luôn giáo dục tinh thần đoàn 
kết là sức mạnh tạo nên thành công. Với những giáo viên dạy đối tượng học sinh 
là người dân tộc thiểu số ngoài năng lực chuyên môn thì đội ngũ giáo viên còn 
phải quan tâm đến việc tinh thần trách nhiệm, sự tâm huyết, cống hiến, tự giác, 
tận tụy đối với công tác giảng dạy. Sự tâm huyết đó được thể hiện bằng việc 
khắc phục những khó khăn của cuộc sống đời thường, điều kiện khó khăn của 
Nhà trường, giành thời gian hợp lý để phụ đạo học sinh đọc viết, tính toán còn 
chậm, tìm tòi, sáng tạo, học hỏi những kinh nghiệm trong giảng dạy, tìm những 
giải pháp hay, thiết thực và hiệu quả để nâng cao chất lượng từng tiết dạy; biết 
quý thời gian trên lớp để truyền thụ kiến thức cho học sinh, giành thời gian 
ngoài giờ lên lớp để tổ chức các hoạt động vui chơi giúp học sinh hứng thú đến 
lớp; thực tế gia đình học sinh tìm hiểu về điều kiện gia đình, hướng dẫn học ở 
nhà, hướng dẫn đánh giá học sinh,.
 * Phân công chuyên môn một cách hợp lý là điều kiện thuận lợi giúp cho 
việc nâng cao chất lượng. Vì vậy ngay từ đầu năm học, Ban giám hiệu đã giành 
rất nhiều thời gian để thảo luận, nghiên cứu và thống nhất việc phân công 
chuyên môn. Bản thân đã chủ trì việc thảo luận phân công chuyên môn sau khi 
các bộ phận đã đưa ra thực trạng về đội ngũ giáo viên. Xác định đội ngũ giáo 
viên được phân công dạy lớp Một là quan trọng nhất. Đội ngũ giáo viên này 
ngoài năng lực chuyên môn vững vàng, chữ viết đẹp thì phải khóe léo, nhiệt tình, 
tâm huyết và chút năng khiếu và kinh nghiệm trong dạy lớp Một. Hơn nữa lớp 1 
toàn trường dạy theo chương trình Tiếng Việt 1 CNGD. Do đó đội ngũ giảng 
dạy lớp 1 là những giáo viên nhiệt tình có kinh nghiệm, có trình độ, có khả năng 
tiếp cận, tiếp thu nhanh và có khả năng hướng dẫn học sinh học tập, đồng thời 
biết chia sẻ kinh nghiệm cho nhau trong tổ chức thực hiện giảng dạy đảm bảo 
 7 Chuyên đề: “Làm thế nào để nâng cao chất lượng giáo dục học sinh dân tộc 
thiểu số lớp Hai tại điểm trường buôn Eana” do cô giáo Phạm Thị Anh thực hiện. 
Chuyên đề: “Giải pháp giảm thiểu tình trạng học sinh lớp Một bỏ học” do cô 
giáo Vũ Thị Nhâm thực hiện. Chuyên đề 3: “Tăng cường tiếng Việt; dạy tiếng 
Việt cho học sinh dân tộc thiểu số hiệu quả” do cô giáo Nguyễn Thị Phương 
thực hiện. 
 Học kỳ I năm học 2016- 2017 đã tổ chức các chuyên đề cấp trường
 Chuyên đề 1: “Dạy tiếng Việt 1 CGD cho học sinh dân tộc thiểu số” ( có sự 
tham gia của Cha mẹ học sinh) do cô Vũ Thị Nhâm thực hiện. Chuyên đề 2: 
“ Tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số”( có sự tham gia của cha 
mẹ học sinh dân tộc thiểu số) do thầy Phan Văn Quản thực hiện, ...
 Qua các buổi sinh hoạt chuyên đề để cán bộ, giáo viên các trường thảo 
luận, tìm ra giải pháp tối ưu về áp dụng ở các khối lớp của trường; giúp đội ngũ 
cán bộ, giáo viên tích lũy cho mình những kinh nghiệm quản lý cũng như 
phương pháp dạy học quý giá. Chỉ đạo giáo viên tích cực tham gia các buổi sinh 
hoạt chuyên môn cấp cụm trường VNEN để giao lưu trao đổi kinh nghiệm dạy 
học, trao đổi việc đánh giá học sinh theo Thông tư số 22/2016/TT-BGDĐT với 
các đơn vị trường bạn. Ngoài việc tổ chức dự giờ thăm lớp trao đổi kinh nghiệm 
lẫn nhau, chúng tôi hướng dẫn cho giáo viên tự học, tự tích lũy chuyên môn 
thông qua tài liệu tham khảo, khai thác mạng Internet; tự hoàn thành bài tập các 
môn học và nghiệp vụ do chuyên môn triển khai hàng tuần để nâng cao kiến 
thức và phương pháp tổ chức dạy học. Chúng tôi tổ chức tham quan học tập các 
đơn vị bạn có kinh nghiệm trong tổ chức dạy học mô hình trường học mới, dạy 
Tiếng Việt 1 CGD. Ngoài ra, Nhà trường còn tổ chức các buổi tuyên truyền về 
Mô hình trường học mới, thông tư 22/2016/ TT_BGDĐT về đánh giá học sinh 
tiểu học,...có sự tham gia của các ban ngành, đoàn thể, cha mẹ học sinh và đội 
ngũ giáo viên để cùng nhìn nhận thực trạng công tác giáo dục của nhà trường 
nói chung và giáo dục học sinh dân tộc thiểu số nói riêng từ đó tìm giải pháp 
nâng cao chất lượng giáo dục.
 9 nhà cách trường 2-3 km nhưng vẫn đi học đều, không còn nghỉ học và bỏ học 
như trước nữa. Việc học sinh đi học thường xuyên giúp cho các em tiếp thu kiến 
thức một cách liên tục, không bị gián đoạn. Chính vì vậy chất lượng đã được 
nâng lên rõ rệt.
 b. 3. Biện pháp thứ ba: Chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học phù 
hợp với điều kiện thực tế. 
 Muốn nâng cao được chất lượng giáo dục cho học sinh dân tộc thiểu số; 
đặc biệt là đối với học sinh lớp 1 và 2, trước hết, thầy cô giáo phải tìm hiểu được 
nếp sống, phong tục tập quán, hoàn cảnh của học sinh. Chỉ đạo giáo viên dạy 
học theo hướng phân hoá các đối tượng học sinh, bám sát đối tượng, phù hợp và 
phát huy được tính tích cực của nhiều đối tượng học sinh trong cùng một lớp 
học, tìm phương pháp giáo dục phù hợp nhằm khơi dậy niềm đam mê, hứng thú 
học tập của các em. Không tạo áp lực bài vở, không học nhồi nhét mà kết hợp 
kiểm tra kiến thức với các hoạt động ngoại khóa, hội vui học tập; đưa ra các 
danh hiệu thi đua để học sinh phấn đấu; biểu dương, khen thưởng học sinh hàng 
tuần, hàng tháng, quan tâm chăm lo đến từng đối tượng học sinh
 Với việc áp dụng phương pháp dạy học theo mô hình trường học Mới và 
tiếng Việt 1 CGD đối với học sinh dân tộc thiểu số ở buôn Drai gặp rất nhiều 
khó khăn và thiếu hiệu quả nếu không thực hiện một cách khoa học và phù hợp 
với đối tượng học sinh. Nhiều giáo viên không dám sử dụng nhiều các hoạt động 
trong giảng dạy vì sợ mất nhiều thời gian. Vì vậy, tiết học trở nên nặng nề, căng 
thẳng, ít hiệu quả. Với Do vậy, bản thân đã chỉ đạo cho giáo viên thực hiện các 
biện pháp giảng dạy nhẹ nhàng, sôi động gây hứng thú cho học sinh giúp các em 
dễ dàng tiếp thu kiến thức hơn. Đối với học sinh dân tộc thiểu số, việc sử dụng 
những phương pháp như đóng vai, thảo luận nhóm, phỏng vấn, sử dụng đồ dùng 
dạy học thường xuyên giúp các em có điều kiện làm quen với các hoạt động 
tập thể, tiếp xúc và sử dụng tiếng Việt nhiều tạo hứng thú để các tiếp thu bài học 
tốt hơn. Vì vậy, CBQL trực tiếp chỉ đạo các tổ chuyên môn đưa ra những điều 
chỉnh phù hợp các bài trong chương trình của các môn học để tổ chức dạy mẫu 
theo hướng đổi mới phương pháp dạy học tích cực của VNEN áp dụng cho học 
 11

File đính kèm:

  • docskkn_mot_so_kinh_nghiem_chi_dao_nang_cao_chat_luong_day_hoc.doc