SKKN Một số giải pháp của GVCN trong việc phát triển năng lực tự chủ và tự học cho học sinh tại Trường THPT Đô Lương 4

docx 36 trang skquanly 16/07/2025 270
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số giải pháp của GVCN trong việc phát triển năng lực tự chủ và tự học cho học sinh tại Trường THPT Đô Lương 4", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số giải pháp của GVCN trong việc phát triển năng lực tự chủ và tự học cho học sinh tại Trường THPT Đô Lương 4

SKKN Một số giải pháp của GVCN trong việc phát triển năng lực tự chủ và tự học cho học sinh tại Trường THPT Đô Lương 4
 SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN
 TRƯỜNG THPT ĐÔ LƯƠNG 4
 
 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đề tài: “Một số giải pháp của Giáo viên chủ nhiệm trong việc phát 
triển năng lực tự chủ và tự học cho học sinh tại Trường THPT Đô 
 Lương 4, Nghệ An.” 
 Giáo viên: Hoàng Nữ Hạnh
 Lĩnh vực: Chủ nhiệm
 Số điện thoại: 0366088900
 Năm học 2021-2022
 1 giáo dục toàn diện ở trường Trung học phổ thông Đô Lương 4 nói riêng và giáo 
dục phổ thông nói chung. 
2. Mục đích nghiên cứu:
 Đề xuất một số giải pháp phát huy vai trò của giáo viên chủ nhiệm trong việc 
phát triển năng lực tự chủ và tự học cho học sinh lớp chủ nhiệm tại trường THPT 
Đô Lương 4.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu:
3.1. Xác định cơ sở lý luận và thực tiễn.
3.2. Phân tích thực trạng việc phát triển năng lực tự chủ và tự học cho học sinh 
trường THPT Đô Lương 4.
3.3. Đề xuất một số giải pháp của giáo viên chủ nhiệm trong việc phát triển năng 
lực tự chủ và tự học cho học sinh lớp chủ nhiệm tại trường THPT Đô Lương 4.
4. Phạm vi nghiên cứu: Trực tiếp tại trường THPT Đô Lương 4.
5. Đối tượng nghiên cứu: Học sinh và giáo viên Trường THPT Đô Lương 4.
6. Phương pháp nghiên cứu:
6.1. Nhóm phương pháp lý luận.
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Quan sát, điều tra, khảo sát, tổng kết 
kinh nghiệm trong quản lý giáo dục.
6.3. Nhóm phương pháp hỗ trợ: Bảng biểu thống kê, sơ đồ...
7. Kết cấu của đề tài: gồm có ba phần:
- Phần một: Đặt vấn đề.
- Phần hai: Nội dung nghiên cứu.
- Phần ba: Kết luận.
 PHẦN HAI: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1. Cơ sở lí luận 
1.1. Quan niệm về tự chủ và tự học
 Tự chủ là làm chủ bản thân, làm chủ được những suy nghĩ, tình cảm và hành 
vi của mình trong mọi hoàn cảnh, tình huống luôn bình tĩnh tự tin và tự điều chỉnh 
hành vi của mình.
 Quan niệm về tự học đã được các tác giả trong và ngoài nước đề cập dưới 
nhiều góc độ, hình thức khác nhau. Theo Thái Duy Tuyên: tự học là hoạt động độc 
lập chiếm lĩnh tri thức, kĩ năng, kĩ xảo,... của người học. Theo Từ điển Giáo dục 
học: tự học là quá tình tự mình hoạt động, lĩnh hội tri thức khoa học và rèn luyện kĩ 
năng thực hành không có sự hướng dẫn trực tiếp của giáo viên và sự quản lí trực 
tiếp của cơ sở đào tạo. GS Nguyễn Cảnh Toàn cho rằng: tự học là tự mình động 
 3 - Đánh giá và điều chỉnh được kế hoạch học tập; hình thành cách học riêng 
của bản thân; tìm kiếm và lựa chọn được nguồn tài liệu phù hợp với mục đích, 
nhiệm vụ học tập khác nhau; ghi chép thông tin bằng các hình thức phù hợp, thuận 
lợi cho việc ghi nhớ; sử dụng, bổ sung khi cần thiết. 
 - Tự nhận ra và điều chỉnh được những sai sót, hạn chế của bản thân trong 
quá trình học tập; biết rút kinh nghiệm để có thể vận dụng vào các tình huống khác 
nhau, biết tự điều chỉnh lại cách học. 
 - Biết thường xuyên tu dưỡng theo mục tiêu phấn đấu của cá nhân. Biết rèn 
luyện, khắc phục những hạn chế của bản thân. Để có thể đáp ứng được những yêu 
cầu trên, giáo viên ở các trường phổ thông cần vận dụng phương pháp dạy học phù 
hợp để phát huy tối đa năng lực tự chủ và tự học của học sinh.
1.4. Vai trò của hoạt động tự học
 Trong quá trình học tập của người học, hoạt động tự học có những vai trò 
sau:
 - Nâng cao kiến thức và hiệu quả học tập. Trong quá trình tự học, học sinh 
cần vận dụng các năng lực trí tuệ để giải quyết vấn đề. Điều này đòi hỏi học sinh 
phải là chủ thể của quá trình nhận thức, biết cách tự tìm tòi, đào sâu suy nghĩ, phê 
phán,... để hiểu kiến thức sâu sắc hơn. 
 - Giúp người học có khả năng tự giải quyết các vấn đề học tập, biết vận dụng 
vào giải quyết các vấn đề thực tiễn. Trong hoạt động tự học, kiến thức mà người 
học chiếm lĩnh được thông qua các hoạt động tư duy của bản thân. Người có khả 
năng tự học có thể thu thập và xử lí thông tin, biết vận dụng kiến thức đã học vào 
thực tiễn và tự kiểm tra, đánh giá hoạt động học tập của mình. 
 - Hình thành các kĩ năng, phương pháp học tập khoa học. Khi tự học, các 
thao tác tư duy lặp đi lặp lại nhiều lần, góp phần hình thành cho người học các kĩ 
năng, phương pháp học tập cho người học. Do vậy, tự học là cốt lõi của cách học, 
như Bác Hồ đã từng nói: “về cách học phải lấy tự học làm cốt”. 
 - Rèn luyện tư duy cho người học. Khi tự học, người học phải sử dụng các 
thao tác tư duy như so sánh, phân tích, tổng hợp, quy nạp, khái quát, trừu tượng 
hóa,... để giải quyết nhiệm vụ đặt ra, do đó tư duy cũng được rèn luyện thường 
xuyên. Trong quá trình học tập, với cùng một lượng kiến thức nhưng các nhiệm vụ 
đặt ra ngày càng cao, điều này giúp người học rèn luyện được các kĩ năng và năng 
lực giải quyết vấn đề, từ đó tư duy của người học cũng dần được phát triển.
 - Nâng cao khả năng tiếp nhận thông tin cho người học. Trong thời đại bùng 
nổ thông tin như hiện nay, các nguồn thông tin được cung cấp đa dạng dưới nhiều 
phương thức và hình thức khác nhau. Do vậy, nếu người học có kĩ năng tự học tốt 
sẽ vận dụng được nguồn thông tin phong phú, đa dạng trong việc thu nhận kiến 
thức cho mình. Ngày nay, tự học có vai trò quan trọng, là điều kiện quyết định 
thành công và có ý nghĩa đối với sự phát triển toàn diện của con người.
 5 Như vây, năng lực tự chủ và tự học cũng là một khả năng, một phẩm chất 
“vốn có” của mỗi cá nhân. Tuy nhiên nó luôn luôn biến đổi tùy thuộc vào hoạt 
động của cá nhân trong môi trường văn hóa – xã hội. năng lực tự học là khả năng 
bẩm sinh của mỗi người nhưng phải được đào tạo, rèn luyện trong hoạt động thực 
tiễn thì nó mới bộc lộ được những ưu điểm giúp cho cá nhân phát triển, nếu không 
sẽ mãi là khả năng tiềm ẩn. Thời gian mỗi chúng ta ngồi trên ghế nhà trường là rất 
ngắn ngủi so với cuộc đời vì vậy tự học và năng lực tự học của học sinh sẽ là nền 
tảng cơ bản đóng vai trò quyết định đến sự thành công của các em trên con đường 
phía trước và đó cũng chính là nền tảng để các em tự học suốt đời.
 1.6. Vai trò của giáo viên chủ nhiệm trong việc phát triển năng lực tự chủ và 
tự học cho học sinh lớp chủ nhiệm tại trường THPT Đô Lương 4.
 Để học sinh biết tìm đến với hoạt động tự học, giáo viên chủ nhiệm cần giúp 
học sinh thấy rõ ý nghĩa của việc tự chủ và tự học: đó là sự chủ động sáng tạo và tự 
lực thực hiện nhiệm vụ học tập để từng bước chiếm lĩnh tri thức và vận dụng kiến 
thức vào thực tiễn một cách vững chắc. Tự học sẽ giúp con người phát triển tính tự 
giác, tự lực, không thụ động và ỷ lại vào người khác, quen với việc làm việc độc 
lập, đáp ứng yêu cầu phát triển của thời đại văn minh, tự giúp mình bồi dưỡng 
hứng thú học tập, rèn luyện ý chí phấn đấu, kiên trì, nâng cao niềm tin vào năng 
lực bản thân.
 Để kích thích cho học sinh biết khao khát, muốn chủ động thực hiện thêm 
các hoạt động học tập của mình để tự hệ thống, mở rộng, nâng cao và làm chủ 
lượng kiến thức đã được thầy cô giáo bộ môn truyền thụ ở mức độ cơ bản. Giáo 
viên chủ nhiệm phải hướng dẫn cho các em phương pháp tự học một cách tự giác 
và đầy chủ động: biết tự chủ về kế hoạch và hình thức tự học, có tổ chức và kiểm 
soát mức độ kết quả đạt được, biết phát hiện, sàng lọc, đúc kết, biết vận dụng... đối 
với nguồn kiến thức phong phú sinh động, rộng rãi...biết tự khai thác, nắm bắt khi 
 7 Việc xác định mục tiêu cụ thể cho từng công việc gắn với ý nghĩa quan trọng 
gì, lý do thực hiện mục tiêu đó là gì? Một khi, mục tiêu có nhiều lý do hướng tới 
thì ta càng có động lực để hoàn thành nó.
 Để đánh giá cách thức sắp xếp hoạt động tự học của học sinh THPT chúng 
tôi tiến hành khảo sát bằng cách đặt câu hỏi học sinh: “Em thường đặt mức độ ưu 
tiên trong việc sắp xếp các môn học theo tiêu chí nào?”. Sau khi khảo sát, chúng 
tôi thấy có sự khác nhau về mức độ ưu tiên trong sắp xếp môn học của các em học 
sinh.
 Mặc dù vậy, theo kết quả khảo sát chỉ có 16% HS sắp xếp công việc theo 
mức độ quan trọng. Chứng tỏ rằng, số học sinh này đã nhận thức được tầm quan 
trọng trong công việc từ đó hoàn thành được công việc học tập của mình một cách 
có hiệu quả nhất.
 Phần lớn học sinh sắp xếp việc học theo sở thích (24%), cảm xúc vì vậy nên 
kiểu người này thường làm việc theo cảm tính, công việc nào thích thì làm trước, 
không thích làm sau, không theo tuần tự, dễ bỏ dở công việc những môn học 
không đúng sở thích, làm theo kiểu qua chuyện và đối phó. 
 Đồng thời qua phỏng vấn sâu các em học sinh, chúng tôi cũng nhận thấy 
hình thức học tập của học sinh ở nhà cơ bản là tự học một mình, rất ít em học 
nhóm với bạn hay học với người khác.
2.1.2. Thực trạng hoạt động tự học của học sinh ở lớp
 Hoạt động tự học cơ bản diễn ra ở thời gian ngoài giờ lên lớp. Hoạt động 
học trên lớp theo hướng đổi mới phương pháp dạy học thì giáo viên là tổ chức, 
hướng dẫn học sinh chiếm lĩnh tri thức, hình thành kĩ năng và năng lực cho người 
học. Học sinh ở trên lớp hiện nay cần tích cực chủ động sáng tạo dưới sự hướng 
dẫn của giáo viên. Như vậy, hoạt động tự học trên lớp là tự học có điều khiển có 
sắp xếp và quản lý điều chỉnh của giáo viên. Vì vậy, chất lượng hoạt động tự học 
trên lớp không chỉ đơn thuần phụ thuộc vào người học mà còn phụ thuộc người 
dạy.
 Để nắm hiện trạng hoạt động tự học của học sinh THPT Đô Lương 4 ở trên 
lớp tôi sử dụng câu hỏi khảo sát giáo viên và học sinh. Đối với học sinh tôi sử dụng 
câu hỏi khảo sát “Em hãy cho biết mức độ các hoạt động em thường làm khi khi 
học ở trên lớp?”. Đối với giáo viên tôi sử dụng câu hỏi “Theo thầy (cô), mức độ 
các hoạt động học sinh thường làm khi khi học ở trên lớp?”. Sau khi khảo sát, 
chúng tôi thu được kết quả bảng 2.2.
 Các hoạt động học trên lớp của học sinh bao gồm: lắng nghe, ghi chép giảng 
bài của thầy cô giáo, sử dụng vở nháp và phiếu học tập để hoàn thành các nhiệm 
vụ mà thầy cô giao, hỏi và trao đổi bài với bạn bè, hỏi và trao đổi bài với thầy cô 
giáo. Có thể nói hoạt động tự học trên lớp là tự học có sự tổ chức, hướng dẫn và 
điều chỉnh của thầy cô giáo. Qua số liệu thống kê, chúng tôi thấy rằng hoạt động 
 9 khoảng thời gian bao nhiêu trong 1 ngày?” đối với học sinh và câu hỏi cho giáo 
viên: “Theo thầy (cô), học sinh thường tự học ở nhà với khoảng thời gian bao 
nhiêu trong 1 ngày?”. 
 Biểu đồ 2.1. Cơ cấu thời gian tự học ở nhà của HS THPT Đô Lương 4 (%)
 50 45
 45
 40 40 38
 40
 35
 30
 25 22 GV
 20 15 HS
 15
 10
 5
 0
 1 giờ 2 giờ 3 giờ
 Khảo sát GV và HS THPT Đô Lương 4 tháng 2/2021
 Theo kết quả khảo sát từ giáo viên về thời gian tự học của học sinh trong 1 
ngày có 55% ý kiến cho rằng học sinh tự học một ngày từ khoảng 1-2 giờ, có 45% 
ý kiến cho rằng học sinh tự học từ 3 giờ, có 0% ý kiến cho rằng học sinh tự học 
trên 3 giờ. Về ý kiến của học sinh về vấn đề này chúng tôi cũng thu được kết quả 
tương tự với ý kiến của giáo viên. Cụ thể là về thời gian tự học của học sinh trong 
1 ngày có 66% ý kiến cho rằng học sinh tự học một ngày từ khoảng 1-2 giờ, có 
38% ý kiến cho rằng học sinh tự học từ 3 giờ, có 0% ý kiến cho rằng học sinh tự 
học trên 3 giờ. Như vậy, có thể thấy rằng thời gian mà một học sinh dành cho hoạt 
động tự học còn rất hạn chế. Theo phỏng vấn sâu chúng tôi thấy rằng học sinh tự 
học với thời gian nhiều hơn khi kiểm tra, thi khảo sát. Điều này cho thấy học sinh 
còn học theo kiểu thời vụ, trước mắt để thi cử mà không chú ý đến việc tự học để 
tích lũy tri thức, hình thành kĩ năng, năng lực của bản thân cho cuộc sống và công 
việc sau này. Vì thế, hoạt động học của học sinh hời hợt hiệu quả thấp, học trước 
quên sau. 
2.1.4. Thực trạng về năng lực lập kế hoạch tự chủ và tự học của học sinh 
 Muốn tự học đạt kết quả thì khả năng lập kế hoạch học tập là rất cần thiết 
đối với mỗi cá nhân người học. Để nắm rõ thực trạng trong lập kế hoạch của học 
sinh THPT Đô Lương 4 chúng tôi đặt câu hỏi khảo sát: “Em có thường xuyên thực 
 11

File đính kèm:

  • docxskkn_mot_so_giai_phap_cua_gvcn_trong_viec_phat_trien_nang_lu.docx