SKKN Một số giải pháp của giáo viên chủ nhiệm nhằm phát triển năng lực giao tiếp và hợp tác cho học sinh ở trường THPT Đô Lương 4
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số giải pháp của giáo viên chủ nhiệm nhằm phát triển năng lực giao tiếp và hợp tác cho học sinh ở trường THPT Đô Lương 4", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số giải pháp của giáo viên chủ nhiệm nhằm phát triển năng lực giao tiếp và hợp tác cho học sinh ở trường THPT Đô Lương 4

SỞ GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT ĐÔ LƯƠNG 4 -------------- SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đề tài: “Một số giải pháp của giáo viên chủ nhiệm nhằm phát triển năng lực giao tiếp và hợp tác cho học sinh ở trường trung học phổ thông Đô Lương 4” LĨNH VỰC:N CHỦ NHIỆM TÊN TÁC GIẢ: NGUYỄN THỊ PHÚC TỔ: XÃÀ HỘI NĂM HỌC : 2021 – 2022 M SĐT: 0985011420 1 trung học phổ thông (THPT) nói chung và ở Nghệ An nói riêng thì chỉ có thể triển khai lồng ghép giáo dục năng lực giao tiếp và hợp tác nhỏ lẻ kết hợp với giáo dục các kỹ năng khác cho học sinh trong một số môn học và chuyên đề ngoại khóa, hoạt động tập thể chung của nhà trường. Định hướng giá trị chưa rõ, các cách thức chưa được thiết kế để hướng vào phát triển năng lực này một cách hiệu quả nên mục đích của phát triển năng lực giao tiếp và hợp tác ở những cơ sở này chưa đạt được kết quả như mong đợi. Trường trung học phổ thông Đô Lương 4 nằm ở vùng hạ huyện Đô Lương, học sinh cơ bản xuất thân từ vùng nông thôn lại ít được giao tiếp bên ngoài nên năng lực giao tiếp và hợp tác có phần hạn chế. Chưa kể những năm đầu đổi mới dạy-học theo hướng phát triển năng lực học sinh phần nào giáo viên cũng còn nhiều lúng túng, thiếu kinh nghiệm.Trong khi đó việc phát triển và nâng cao năng lực giao tiếp và hợp tác cho học sinh là điều hết sức cần thiết. Trước thực tế đó, bản thân tôi thiết nghĩ giáo viên chủ nhiệm lớp có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát triển năng lực giao tiếp và hợp tác góp phần vào mục tiêu phát huy phẩm chất và năng lực, góp phần định hướng nghề nghiệp cho học sinh. Từ đó hướng đến mục đích đào tạo con người mới Việt Nam phát triển cân đối, hài hòa và toàn diện. Từ những vấn đề nêu trên, với kinh nghiệm thực tế trong công tác giáo viên chủ nhiệm, tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài:“Một số giải pháp của giáo viên chủ nhiệm nhằm phát triển năng lực giao tiếp và hợp tác cho học sinh ở trường trung học phổ thông Đô Lương 4” góp phần vào việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện ở trường Trung học phổ thông Đô Lương 4 nói riêng và giáo dục phổ thông nói chung. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu - Khảo sát và đánh giá thực trạng năng lực giao tiếp và hợp tác của học sinh THPT Đô Lương 4, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. - Làm rõ những nguyên nhân tồn tại, những yếu tố khách quan và chủ quan ảnh hưởng đến năng lực giao tiếp và hợp tác của học sinh. 3 + Phương pháp tổng hợp: Tổng hợp tài liệu từ các công trình nghiên cứu, các bài báo khoa học, các tác phẩm khoa học, đề tài nghiên cứu đã có và tổng hợp điều tra, bảng hỏi và số liệu thống kê để đưa ra một số định hướng để giải quyết những tồn tại trong hoạt động của học sinh. - Phương pháp thống kê và xử lý số liệu bằng thống kê toán học: Nghiên cứu, thu thập, thống kê các thói quen, các hoạt động, kết quả ý kiến, kiến nghị của học sinh về vấn đề rèn luyện năng lực hợp tác cho học sinh THPT Đô Lương 4, Huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. Tiến hành xử lý, định lượng số liệu, biểu đồ hóa. - Phương pháp quan sát và tổng kết thực tiễn: Trên cơ sở, theo dõi nghiên cứu biểu hiện cụ thể của học sinh hàng ngày đề tài đưa ra những nhận xét, đánh giá và kết luận khoa học. 5 có” cho phép thực hiện một hành động nào đó. Như vậy, khái niệm này đề cập đến các yếu tố cần phải tích lũy và những yếu tố đã được tích lũy của chủ thể người học nhằm vận dụng trong một hành động cụ thể nào đó. Khái niệm này phù hợp với việc dạy và học ngoại ngữ khi coi người học là một chủ thể có yếu tố xã hội, có tính đến những vốn sẵn có về các mặt văn hóa, xã hội cũng như là kinh nghiệm cá nhân tích lũy được trong cuộc sống. 1.1.2. Năng lực giao tiếp 1.1.2.1. Khái niệm năng lực giao tiếp Giao tiếp là một quá trình trong đó các bên tham gia tạo ra hoặc chia sẻ thông tin, cảm xúc với nhau nhằm đạt được mục đích giao tiếp. Theo cách quan niệm này, giao tiếp không đơn thuần là một hành vi đơn lẻ mà nó nằm trong một chuỗi các tư duy hay hành vi mang tính hệ thống trong bản thân các bên tham gia giao tiếp hoặc giữa họ với nhau. Thành phần các bên tham gia vào quá trình giao tiếp có thể rất đa dạng nếu xét giao tiếp theo nghĩa rộng. Tuy nhiên, giao tiếp mà chúng ta nói ở đây giới hạn vào con người với tư cách là các bên tham gia giao tiếp. Bởi giao tiếp là một quá trình, giao tiếp liên quan đến việc chia sẻ thông tin hoặc cảm xúc giữa các bên tham gia. Điều này nhấn mạnh rằng giao tiếp không thể mang tính một chiều dù rằng xét bề mặt thì có rất nhiều tình huống cho thấy một bên tham gia giao tiếp hướng tới bên kia một cách “tuyệt vọng’’ mà không có hồi âm hay phản hồi. Khái niệm về năng lực giao tiếp lần đầu được xuất hiện trong những năm 1970 khi nhà ngôn ngữ học Hymes phân biệt hai loại năng lực: “năng lực ngữ pháp” và “năng lực sử dụng”. Theo Hymes, “năng lực sử dụng” là khả năng vận dụng các “năng lực ngữ pháp” nhằm đảm bảo các phát ngôn phù hợp với các tình huống cụ thể. Từ đó, khái niệm “năng lực giao tiếp” được hình thành để chỉ việc sử dụng hiệu quả ngôn ngữ trong một tình huống xã hội cụ thể. Đối với A.Abbou, năng lực giao tiếp được xem xét dưới góc độ xã hội nhiều hơn là ngôn ngữ. Theo Abbou, năng lực giao tiếp của một người nào đó là “tổng hợp năng lực vốn có và các khả năng thực hiện được hệ thống tiếp nhận và diễn giải các tín hiệu xã hội có được theo đúng như tập hợp các chỉ dẫn và quy trình đã được xây 7 các phát ngôn của người khác và đưa ra các phát ngôn để người khác có thể tiếp nhận và diễn đạt lại được. - Như vậy, năng lực này bao gồm các mặt thuần túy ngôn ngữ, diễn ngôn (chuyển từ câu sang lời nói) và các tình thái (tu từ). Năng lực này được thể hiện dưới nhiều cấp độ, tức là theo số lượng và sự phức tạp của các phát ngôn và các mẫu được tiếp nhận và phát ra. - Năng lực văn hóa-xã hội bao gồm các năng lực bẩm sinh và khả năng sử dụng ngôn ngữ mà chủ thể người nói có được để kết nối các tình huống, sự kiện, hành vi, ứng xử với các mã hóa xã hội và hệ quy chiếu (hệ thống các quan niệm điều chỉnh việc tổ chức các tập quán về khoa học và xã hội). Giống như năng lực ngôn ngữ, năng lực này cũng được hình thành theo từng cấp độ. - Năng lực logic chỉ các năng lực bẩm sinh và khả năng để tạo ra tập hợp các diễn ngôn có thể diễn đạt được, liên kết với các biểu trưng và phạm trù thực tế và phân biệt các cơ sở khái niệm, các phương thức nối kết và bước cụ thể để đảm bảo diễn ngôn được thống nhất, tiến triển và có hiệu lực. - Năng lực lập luận bao gồm các năng lực bẩm sinh và khả năng cho phép tạo ra các thao tác diễn ngôn theo mối quan hệ giữa cá nhân với tổ chức, với tình huống, với nhu cầu, với dự định mang tính chiến lược và chiến thuật. - Cuối cùng là năng lực tín hiệu học bao gồm các năng lực bẩm sinh và khả năng giúp cá nhân có được các phương tiện tiếp nhận các đặc tính võ đoán, đa hệ thống và nhất là dễ thay đổi của tín hiệu diễn tả mang tính xã hội và các diễn đạt bằng ngôn ngữ. Đặc biệt, năng lực này được cụ thể hóa bằng việc hiểu và thực hành các thao tác diễn đạt, giữ và tái hiện nghĩa hoặc là để phù hợp với thực tế hoặc là khi tưởng tượng có sử dụng ngôn ngữ để thể hiện được các dấu hiệu ảo ảnh hoặc ý muốn. Cũng cùng quan điểm cấu trúc năm yếu tố, nhưng H.Boyer lại tổ chức theo một hướng nhìn khác. Theo học giả này, năm yếu tố đó bao gồm: + Năng lực về tín hiệu hay tín hiệu ngôn ngữ; + Năng lực về quy chiếu; + Năng lực về diễn ngôn – văn bản; 9 Đối tượng giao tiếp là đối tượng mà chúng ta thực hiện việc giao tiếp. Đối tượng giao tiếp rất đa dạng, có thể là trẻ em hay người lớn, là nông dân hay trí thức, là người nghèo hay người giàu, là người nóng tính hay bình thản nhưng ở đây chỉ tập trung về nhóm theo độ tuổi và đặc điểm tâm lí . Nhóm đối tượng giao tiếp chia theo độ tuổi và đặc điểm tâm lý cơ bản Bao gồm 5 nhóm đáng quan tâm sau: - Nhi đồng: Từ 5 – 6 tuổi cho đến 10 - 11 tuổi. Lứa tuổi này nói theo và bắt chước người lớn một cách máy móc, trẻ còn ham chơi, thích chơi chung với các bạn trong nhóm như hội hay đội thiếu niên Trẻ xem thầy cô là những người lý tưởng, đối với bạn bè chưa có sự phân biệt giàu, nghèo, học giỏi hay học giở, các em rất hồn nhiên và thơ ngây vì thế các em dễ tha thứ cho nhau và mau quên các sai lầm của nhau. Các em có khả năng quan sát rất cao để học và hỏi. Song, do nhiều yếu tố xã hội ngày nay như: sự phát triển của Internet, sự thờ ơ, thiếu văn hóa, đạo đức của một bộ phận xã hội, gia đình bận rộn, ít quan tâm đến con cái làm chúng dể bị tự kỉ, xa lánh bạn bè, hoặc ngang bướng, nghịch ngợm. - Thiếu niên: Từ 11 – 12 đến 14 – 15 tuổi. Ở lứa tuổi này, sự thay đổi tâm lý xảy ra rất lớn do ảnh hưởng bởi sự dậy thì. Đây là độ tuổi có tâm lý phức tạp, không còn là trẻ con nhưng cũng chẳng phải là người lớn. Vì thế mà tâm lý luôn mất cân đối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn trong sự phát triển. Các em bắt đầu quan tâm nhiều hơn đến chuyện giới tính và bạn khác giới. Các em thường đánh giá chủ quan qua bề ngoài của một vấn đề mà không cần xem xét cụ thể tính đúng đắn, chân thật của nó. Về giao tiếp với người lớn, các em muốn được người lớn coi trọng và xem mình cũng là người lớn không thích bị áp đặt bị coi là con nít. Các em luôn có xu hướng muốn khẳng định mình với bạn bè, với người lớn một cách máy móc, thiếu suy nghĩ đôi khi rất trẻ con. - Thanh niên: Từ 15 – 20 tuổi. Tâm sinh lý bắt đầu ổn định, các em được công nhận như một người lớn. Sự tự ý thức tăng dần, đặc biệt là tính tự trọng phát triển đến mức độ cao. Tình cảm các em rất phong phú, tình yêu phát triển nhưng chưa chín chắn và hoàn thiện dần đến tuổi đầu sinh viên. Khả năng suy xét và đánh giá, phát triển hơn. Các em biết tạo uy tín và phong cách riêng cho mình. Phạm vi giao 11 Tùy thuộc vào các đối tượng giao tiếp, bạn thiết lập phong cách và hình thức giao tiếp cho phù hợp. Ví dụ, khi giao tiếp với cấp trên, các hình thức giao tiếp trang trọng như gửi email hoặc gọi điện thoại sẽ được ưu tiên. Khi làm việc teamwork, video conference sẽ là kênh giao tiếp hiệu quả hơn một email dày đặc thông tin. + Sự thân thiện Sự thân thiện góp phần làm nên hiệu quả giao tiếp (niềm tin và sự thấu hiểu) được đảm bảo trên 2 yếu tố: sự chân thành và lòng tốt. Trong công việc, bạn có thể bắt đầu cuộc trò chuyện với đồng nghiệp hay cấp trên bằng những câu hỏi đời thường về quê quán, nơi ở, thời tiết hay tình trạng sức khỏe với thái độ tích cực và luôn giữ nụ cười trên môi kèm theo những lời khen ngợi, chúc mừng trước thành quả của đồng nghiệp, giúp nuôi dưỡng niềm tin với cấp trên và với đồng nghiệp, thúc đẩy hiệu quả công việc. + Sự tự tin Tự tin là yếu tố then chốt cho việc thể hiện một ý tưởng như phát biểu, đóng góp ý kiến tại cuộc họp. Sự tự tin được thể hiện qua tương tác bằng mắt, ngồi thẳng và mở rộng vai khi trao đổi thông tin với trưởng phòng kinh doanh hoặc đồng nghiệp. Bên cạnh đó, sự tự tin sẽ giúp bạn thành công trong việc thuyết phục các nhà tuyển dụng trong cuộc phỏng vấn vào vị trí mà bạn mong ước. + Trao đi và tiếp nhận phản hồi Hiệu quả giao tiếp phần lớn được đánh giá bởi chất lượng của các phản hồi. Phản hồi càng sâu sắc và mang tính phản biện thì vấn đề đưa ra càng thu hút và có chiều sâu. Phản hồi nên tập trung giải quyết vấn đề, cung cấp các giải pháp để củng cố thêm tính bền vững và khả thi của các dự án. + Âm lượng và sự rõ ràng Chất lượng giao tiếp cũng phụ thuộc vào âm lượng và sự rõ ràng. Khi bạn muốn truyền đạt một thông điệp, bạn cần điều chỉnh âm lượng của giọng nói hoặc của các phương tiện truyền tải thông tin sao cho âm thanh truyền tải đủ nghe và rõ ràng để đảm bảo người nghe không bỏ sót bất kì thông tin quan trọng nào. Âm thanh quá to khiến cho thông tin truyền đi kém hiệu quả và khiến người nghe không cảm thấy được tôn trọng. 13
File đính kèm:
skkn_mot_so_giai_phap_cua_giao_vien_chu_nhiem_nham_phat_trie.docx