SKKN Một số biện pháp tạo hứng thú cho học sinh trong dạy học môn Toán 7 tại trường THCS Lê Quý Đôn
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số biện pháp tạo hứng thú cho học sinh trong dạy học môn Toán 7 tại trường THCS Lê Quý Đôn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số biện pháp tạo hứng thú cho học sinh trong dạy học môn Toán 7 tại trường THCS Lê Quý Đôn
Tên đề tài “Một số biện pháp tạo hứng thú cho học sinh trong dạy học môn Toán 7 tại trường THCS Lê Quý Đôn” MỤC LỤC Phần thứ nhất: MỞ ĐẦU.......................................................................................2 I. Đặt vấn đề..............................................................................................................2 II. Mục tiêu nghiên cứu.............................................................................................2 Phần thứ 2: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.....................................................................3 I. Cơ sở lí luận của vấn đề ........................................................................................3 II. Thực trạng vấn đề.................................................................................................4 III. Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề.................................................5 IV. Tính mới của giải pháp.....................................................................................16 V. Hiệu quả SKKN .................................................................................................16 Phần thứ 3: KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ...............................................................17 I. Kết luận ...............................................................................................................17 II. Kiến nghị............................................................................................................17 TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................19 Người thực hiện: Bảo Long 1 Đơn vị : THCS Lê Quý Đôn Tên đề tài “Một số biện pháp tạo hứng thú cho học sinh trong dạy học môn Toán 7 tại trường THCS Lê Quý Đôn” Phần thứ 2: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. Cơ sở lí luận của vấn đề Nhận thức rõ vai trò của giáo dục trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, giáo dục nhằm tạo ra nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu hội nhập với thế giới và với khu vực nên giáo dục và vấn đề đổi mới phương pháp dạy học ở phổ thông đã được các cấp lãnh đạo từ Trung ương đến địa phương hết sức quan tâm. Đặc biệt sau khi có chỉ thị 15/1999/CT BGD - ĐT; trong báo cáo chính trị Đại hội Đảng lần thứ IX (2001); trong Nghị quyết 40/2000/QH10 của Quốc hội và chỉ thị 14/2001/CT - TTg của Thủ tướng chính phủ. Trong báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ X (2006) có “Giáo dục cùng với khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu”. Như vậy, phải nói rằng giáo dục và công cuộc đổi mới phương pháp dạy học đã nhận được sự quan tâm đặc biệt của các cấp lãnh đạo Đảng, Nhà nước và ngành giáo dục. Khái niệm hứng thú: Là một thuộc tính tâm lý của nhân cách, là một hiện tượng tâm lý phức tạp được thể hiện khá rộng rãi trong cuộc sống của mỗi cá nhân cũng như trong các lĩnh vực nghiên cứu khoa học. Nhà tâm lý học I.PH. Shecbac cho rằng, hứng thú là thuộc tính bẩm sinh vốn có của con người, nó được biểu hiện thông qua thái độ, tình cảm của con người vào một đối tượng nào đó trong thế giới khách quan.Annoi nhà tâm lý học người Mỹ lại quan niệm, hứng thú là một sự sáng tạo của tinh thần với đối tượng mà con người hứng thú tham gia vào. Các tác giả Phạm Minh Hạc - Lê Khanh - Trần Trọng Thủy cho rằng: Khi ta có hứng thú về một cái gì đó, thì cái đó bao giờ cũng được ta ý thức, ta hiểu ý nghĩa của nó đối với cuộc sống của ta. Hơn nữa ở ta xuất hiện một tình cảm đặc biệt đối với nó, do đó hứng thú lôi cuốn hấp dẫn chúng ta về phía đối tượng của nó tạo ra tâm lý khát khao tiếp cận đi sâu vào nó. Có nhiều quan niệm khác nhau về hứng thú, tuy nhiên có thể coi quan niệm của GS.TS. Nguyễn Quang Uẩn là bao hàm nhất: "Hứng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó, vừa có ý nghĩa đối với cuộc sống, vừa có khả năng mang lại khoái cảm cho cá nhân trong quá trình hoạt động". 2. Động cơ và vai trò trong việc hình thành hứng thú học tập của học sinh Động cơ học tập là cái thúc đẩy hoạt động học, vì nó mà học sinh thực hiện hoạt động học. Động cơ học tập của học sinh được hiện thân ở đối tượng của hoạt động học, tức là những tri thức, kỹ năng, thái độ mà giáo dục sẽ đưa lại cho họ. Động cơ học tập không có sẵn, cũng không thể áp đặt, mà phải được hình thành dần dần trong quá trình học sinh tự phát hiện ra vấn đề và giải quyết các vấn đề, hình thành ở học sinh nhu cầu học tập, nhu cầu nhận thức, nhu cầu chiếm lĩnh đối tượng học. Cũng như các loại hoạt động khác, hoạt động học tập của học sinh cũng phải có động cơ, người ta gọi đó là động cơ học tập. Không có động cơ học tập, học sinh sẽ học theo kiểu chiếu lệ, ép buộc. Có động cơ học tập các em ngày càng yêu thích môn học, say mê và hứng thú đối với việc học hơn và do đó sẽ có kết quả cao hơn trong học tập. Do vậy, có thể khẳng định việc hình thành động cơ, hứng thú học tập cho học sinh có một ý nghĩa rất quan trọng không thể thiếu trong quá trình dạy học. Có hứng thú học tập thì tư duy học sinh luôn ở trạng thái hưng phấn, đó là điều kiện tốt để các em Người thực hiện: Bảo Long 3 Đơn vị : THCS Lê Quý Đôn Tên đề tài “Một số biện pháp tạo hứng thú cho học sinh trong dạy học môn Toán 7 tại trường THCS Lê Quý Đôn” cho phù hợp. Lúc này tôi cảm thấy cần có sự thay đổi trong cách dạy của mình để kích thích hứng thú học tập của học sinh, thay vì những tiết giảng chỉ sử dụng phương pháp truyền thụ theo lối thuyết trình, tôi sẽ sử dụng các phương pháp dạy tích cực, sáng tạo. III. Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề 1. Gây hứng thú cho học sinh từ việc xây dựng môi trường học tập thân thiện Ngay từ đầu tôi đã cố gắng tạo được niềm tin và tình cảm thực sự từ học sinh dành cho giáo viên. Qua cách ăn mặc, đi đứng, nói năng đúng chuẩn mực đạo đức. Khi vào lớp tôi luôn chú trọng đến việc tạo bầu không khí tươi vui, thoải mái cho các em bằng những câu chuyện hài hước. Tôi luôn nắm bắt các xu hướng mới của học sinh, để tạo cảm giác cho các em rằng giáo viên cũng là một “người bạn lớn” có thể chia sẽ. Trong quá trình dạy, tôi luôn tôn trọng ý kiến trả lời của học sinh, không gò ép các em vào khuôn phép cứng nhắc. Khuyến khích cho điểm động viên học sinh khi học sinh trả lời đúng hoặc gần đúng câu hỏi. Từ đó tạo cho học sinh có được niềm tin vào khả năng của bản thân. Tôi luôn tạo cơ hội cho học sinh suy nghĩ làm việc, thảo luận với nhau, tìm tòi học hỏi, nghiên cứu. Nhằm phát huy tích tích cực, chủ động của học sinh, giúp các em tự học không chỉ ở nhà mà còn tự học trong chính các tiết học. Tôi thường xuyên giải đáp các thắc mắc của các em với thái độ tôn trọng đồng thời có hệ thống câu hỏi phù hợp với từng đối tượng học sinh để có thể gây dựng sự hứng thú của các em. Hình 1: Giáo viên kể những mẫu chuyện vui Toán học đầu tiết dạy 2. Tổ chức các trò chơi gây hứng thú trong các tiết dạy. Bản chất của phương pháp sử dụng trò chơi học tập là dạy học thông qua việc tổ chức hoạt động cho học sinh. Dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh được hoạt động bằng cách tự chơi trò chơi trong đó mục đích của trò chơi truyền tải mục tiêu của bài học. Luật chơi (cách chơi) thể hiện nội dung và phương pháp học, đặc biệt là phương pháp học tập có sự hợp tác và sự tự đánh giá.Sử dụng trò chơi học tập để hình thành kiến thức, kỹ năng mới hoặc củng cố kiến thức, kỹ năng đã học. Trong thực tế dạy học, giáo viên thường tổ chức trò chơi học tập để củng cố kiến thức, kỹ năng. Tuy Người thực hiện: Bảo Long 5 Đơn vị : THCS Lê Quý Đôn Tên đề tài “Một số biện pháp tạo hứng thú cho học sinh trong dạy học môn Toán 7 tại trường THCS Lê Quý Đôn” Khi chơi, giáo viên cần quan sát học sinh chơi để biết thái độ, cử chỉ, phong cách của từng học sinh từ đó điều chỉnh phong cách cho phù hợp. Đôi khi trong quá trình chơi, giáo viên cũng có thể chuyển hướng với những dự kiến để làm không khí lớp học sôi nổi. 2.4. Giai đoạn kết thúc. Giai đoạn này tôi để “trọng tài” làm việc. Trọng tài là một học sinh có khả năng quản lý, điều khiển lớp tốt. Trọng tài sẽ yêu cầu các bạn học sinh là “khán giả” nhận xét kết quả của các đội chơi, phân xử thắng thua. Giáo viên là người đóng vai trò quan trọng nhất trong hoạt động trò chơi, phải xử lý tình huống một cách khách quan, không thiên vị, không dễ dãi. Giáo viên công bố kết quả chung cuộc chơi, có hình phạt đội thua nhẹ nhàng, thoải mái, khen thưởng các thành viên của đội thắng cuộc bằng quà tặng hoặc khen thường bằng điểm (mang tính chất khích lệ học sinh). 2.5. Một số trò chơi trong dạy học môn Toán tại trường THCS 2.5.1. Trò chơi “Tiếp sức” Ví dụ: Khi dạy bài: lũy thừa của 1 số hữu tỉ Tôi tổ chức chia lớp thành 4 đội, mỗi đội 5 thành viên tham gia chơi trò chơi tiếp sức, thời gian của trò chơi là 4 phút. Học sinh sẽ điền vào phần để chấm trên 2 bảng phụ (giống nhau).Đội nào hoàn thành trước hoặc khi hết thời gian thì sẽ kết thúc trò chơi. Khi nào trọng tài hô “Bắt đầu” thì thành viên số 1 của các đội lần lượt lên bảng ghi lời giải của mình Bảng phụ: ĐIỂN VÀO DẤU ... 1) x.y n ... 2)xm.xn ... n x 3) ... y n 4) xm ... 5)xm : xn ...(x 0,m n) Trọng tài cùng cả lớp nhận xét, đánh giá xác định đội thắng thua Phần kết quả đúng Người thực hiện: Bảo Long 7 Đơn vị : THCS Lê Quý Đôn Tên đề tài “Một số biện pháp tạo hứng thú cho học sinh trong dạy học môn Toán 7 tại trường THCS Lê Quý Đôn” Số 9:Có 8 chữ cái:hai góc đối đỉnh thì Đáp án: BẰNG NHAU Sau khi có học sinh giải được ô chữ hàng dọc, tôi đã liên hệ mở rộng kiến thức: Năm 1010, tương truyền khi vua Lý Công Uẩn rời kinh đô Hoa Lư đến đất Đại La thì thấy rồng bay lên nên gọi tên kinh đô mới là Thăng Long, hay "rồng bay lên" theo nghĩa Hán Việt. Ngày nay tên Thăng Long còn dùng trong văn chương, trong những cụm từ như "Thăng Long ngàn năm văn vật"... Năm 2010 là kỷ niệm một thiên niên kỷ của Thăng Long Hà Nội. Năm 1243, nhà Trần tôn tạo sửa đổi và gọi Thăng Long là Long Phượng. Cuối thời Trần, Hồ Quý Ly cho đặt tên là Đông Đô. Năm 1428, Lê Lợi đặt kinh đô tại Thăng Long và đổi tên là Đông Kinh, vì có kinh đô thứ 2 là Tây Kinh tại Thanh Hóa. Vào khoảng thế kỷ 16, khi Đông Kinh trở thành một đô thị sầm uất, có cả người Châu Âu đến buôn bán, thì trong dân gian bắt đầu gọi Đông Kinh là Kẻ Chợ. Theo 1 người đã đến kinh đô Thăng Long là ông William Dampier người Anh thì tại đây có tới 20.000 nóc nhà, thường thấp, tường trát bùn và mái lợp rơm. Dù vậy cũng có một số nhà xây bằng gạch và lợp ngói.Hoàng cung được xây dựng nguy nga hơn dù cũng làm bằng gỗ. Năm 1805, sau khi thống nhất đất nước, nhà Nguyễn đặt kinh đô tại Phú Xuân (Huế) và cho phá thành Thăng Long để xây thành theo phương pháp của phương Tây do kỹ sư Pháp giúp đỡ. Đồng thời vua Gia Long đổi tên chữ Hán của Thăng Long, với nghĩa là "rồng bay lên" thành ra từ đồng âm Thăng Long, nhưng mang nghĩa là "thịnh vượng" khác nghĩa với thời các triều đại trước, vì cho rằng Thăng Long lúc đó không còn là kinh đô nơi vua ở cho nên không dùng biểu tượng rồng, linh vật tượng trưng cho vương quyền. Gia Long đổi phủ Phụng Thiên thành phủ Hoài Đức, còn tại kinh đô Huế cho lập phủ Thừa Thiên, trực lệ kinh kỳ. Thăng Long tồn tại cho đến thời vua Minh Mạng khi bãi bỏ Bắc Thành tổng trấn và thành lập tỉnh Hà Nội, năm 1831 niên hiệu Minh Mạng thứ 12. Người thực hiện: Bảo Long 9 Đơn vị : THCS Lê Quý Đôn
File đính kèm:
skkn_mot_so_bien_phap_tao_hung_thu_cho_hoc_sinh_trong_day_ho.doc

