SKKN Một số biện pháp quản lý chỉ đạo GVCN thực hành phương pháp kỷ luật tích cực trong phong trào thi đua Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực

docx 31 trang skquanly 05/05/2025 160
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp quản lý chỉ đạo GVCN thực hành phương pháp kỷ luật tích cực trong phong trào thi đua Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số biện pháp quản lý chỉ đạo GVCN thực hành phương pháp kỷ luật tích cực trong phong trào thi đua Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực

SKKN Một số biện pháp quản lý chỉ đạo GVCN thực hành phương pháp kỷ luật tích cực trong phong trào thi đua Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực
 DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
CBQL Cán bộ quản lý
GD Giáo dục
THCS Trung học cơ sở
BGH Ban Giám hiệu
GV Giáo viên
HS Học sinh
GVCN Giáo viên chủ nhiệm
XH Xã hội
GĐ Gia đình
QLGD Quản lý giáo dục
PPKLTC Phương pháp kỉ luật tích cực PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
 Từ năm học 2008-2009, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phát động phong trào 
thi đua ‘Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Phong trào này đã 
được triển khai rộng rãi trong các trường mầm non và phổ thông giai đoạn 2008 
đến nay. Phong trào thi đua này phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng 
giáo dục (giáo dục nhà trường là nòng cốt), phát huy vai trò tích cực, sáng tạo của 
học sinh cùng xây dựng môi trường giáo dục thân thiện. Đó là môi trường an toàn, 
thuận lợi với mọi học sinh; học sinh được tạo điều kiện để sống khỏe mạnh, vui 
vẻ, tích cực học tập và tham gia các hoạt động khác; được giáo viên nhiệt tình 
giảng dạy yêu thương, tôn trọng; được gia đình và cộng đồng tạo điều kiện phát 
huy hết tiềm năng của bản thân. Cũng trong môi trường này, học sinh ý thức sâu 
sắc hơn về quyền được chăm sóc và bảo vệ, quyển được hưởng nền giáo dục có 
chất lượng.
 Cùng thời gian này, Tổ chức Plan tại Việt Nam triển khai chương trình hành 
động “Trường học thân thiện” (tháng 2 năm 2008) với khẩu hiệu trọng tâm “ Giáo 
viên mẫu mực, học sinh tích cực” nhằm đạt mục tiêu “ Mọi trẻ em Việt Nam được 
sống trong môi trường bảo vệ an toàn, ở đó tất cả hành vi bạo lực trẻ em được ngăn 
chặn và giải quyết triệt để”. Theo đó:
1/ Trẻ em hiểu được quyền và bổn phận của mình, biết được các kỹ năng sống 
giúp phòng tránh các hình thức bạo lực và được bày tỏ quan điểm của mình đối 
với các vấn đề liên quan đến trẻ;
2/ Người dân, đặc biệt là giáo viên, cha mẹ, những người chăm sóc trẻ..., hiểu được 
quyền và bổn phận của của trẻ em, các tác hại của trừng phạt, bạo lực trẻ em và 
dần có khả năng áp dụng phương pháp kỷ luật tích cực.
 Phương pháp kỷ luật được đề cập ở trên phản được hiểu theo nghĩa rộng. 
Đó là một quan điểm giáo dục, trong đó các chủ thể giáo dục thiết lập, vận hành 
mối quan hệ, cách thức xử sự thân thiện (loại trừ các hình thức bạo lực, trừng phạt) 
giúp cho mọi học sinh thấy thoải mái, tích cực phát huy những điểm mạnh, nội dung của phong trào thi đua “ Xây dựng trường học thân thiện học sinh tích cực”
 3. Nhiệm vụ nghiên cứu
 - Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về thực hành phương pháp kỷ luật 
 tích cực trong công tác chủ nhiệm lớp
 - Thử nghiệm một hoạt động chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm lớp thực hành 
 phương pháp kỷ luật tích cực trong phong trào thi đua “ Xây dựng trường học thân 
 thiện học sinh tích cực”.
 Chương 1
 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM
 VÀ PHƯƠNG PHÁP KỶ LUẬT TÍCH CựC
 TRONG PHONG TRÀO THI ĐUA “XÂY DỰNG TRƯỜNG HỌC
 THÂN THIỆN HỌC SINH TÍCH CỰC”
 1.1. Quan niệm về công tác chủ nhiệm lớp trong đổi mới giáo dục hiện nay
 1.1.1. Tầm quan trọng của công tác chủ nhiệm lớp
 Công tác chủ nhiêm lớp ra đời cách đây mấy trăm năm, sau khi xuất hiên hê thống 
 tổ chức nhà tr-ờng theo lý luận của Cômenxki và tổn tại cho đến ngày nay. Vì tr-ờng 
 đông HS, cần chia nhỏ thành lớp, quản lý HS mỗi lớp là GVCN.
 Hàng trăm năm, chức năng cơ bản nhất của GVCN là Đại diện của Hiệu tr-ởng 
 quản lý hoạt động học tập, sinh hoạt của một lớp học trong nhà tr-ờng. Vì vậy GVCN 
 đ-ợc coi nh- ''Một hiệu tr-ởng nhỏ''.
 Hiện nay, do những yêu cầu mới mà vai trồ, vị trí của GVCN có những thay đổi 
 rất lớn.
 + Tr—ớc hết do mục tiêu giáo dục có những thay đổi. Ngày nay giáo dục con 
 ng-ời phát triển toàn diên trở thành yêu cầu khách quan, là đòi hỏi của sự phát triển kinh 
 tế' XH của nền văn minh Hậu công nghiêp.
 Yêu cầu của XH cần đào tạo những thế' hê lao động thông minh, năng động, sáng 
 tạo, biết kết hợp giữa lao động chân tay và lao động trí óc, giữa lý luận với thực tiễn, có 
 kiến thức sâu rộng và có năng lực vận dụng kiến thức vào thực tế. Có xúc cảm, tình cảm, 
 niềm tin sâu sắc vào sự phát triển của dân tộc d-ới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà n-ớc. 
 Có bản lĩnh chính trị vững vàng trong mọi tình huống, có sức khỏe thể chất và sức khỏe 
 tinh thần, có 8 năng lực để khỏe hơn, tuổi dạy thì sớm hơn, các chỉ số IQ cũng cao hơn, nhu cầu hoạt động, h- ởng 
 thụ cũng phong phú hơn.
 Sống trong thực tế ấy, ở HS có sự phân hóa, phân cực khá rõ rêt. Một bộ phận 
không nhiều, có nhận thức, có ý chí, bản lĩnh biết tận dụng thời cơ, điều kiên học tập rèn 
luyên để trở thành những ng-ời tiên tiến. Còn một bộ phận lớn ch-a có kinh nghiêm sống, 
những phẩm chất tâm lý, đạo đức ch-a bền vững rất khó khăn trong sự lựa chọn, xác định 
ph- ơng h-ớng học tập, rèn luyên, vì vậy vai trò của các nhà SP (trong đó có GVCN) là 
rất quan trọng.
 Xuất phát từ những yêu cầu mới, từ hoàn cảnh cụ thể của XH, của gia đình trong 
thời đại hiên nay vị trí của GVCN và công tác GVCN ở tr-ờng học có một ý nghĩa đặc 
biêt. Vấn đề đặt ra là đòi hỏi thầy cô giáo chủ nhiêm nh- thế nào và cần xác định một cơ 
chế hoạt động về quyền hạn, trách nhiêm cho phù hợp với thực tế.
 1.1.2. Chức năng, nhiệm vụ của GVCN
 Trong giai đoạn hiên nay, do yêu cầu của đổi mới giáo dục, ng-ời GVCN phải là 
sự tổng hợp nhân cách, năng lực của một nhà SP, một nhà quản lý, một cố vấn cho các 
tổ chức XH và gia đình, là t- vấn cho tất cả HS trong học tập, rèn luyên và hoạt động XH, 
GVCN còn phải là một nhà hoạt động chính trị văn hóa xã hội.
 Điểm mới, khác chủ yếu GVCN hiên nay so với tr-ớc là ở chỗ:
 - Tr íc ®ây:
 + Đối t-ợng : Quản lý HS một lớp học
 + Nội dung quản lý : Hoạt động học tập
 + Không gian thời gian : ở lớp ở tr-ờng
 + Ph-ơng pháp quản lý : Trực tiếp
 + Chịu trách nhiệm với hiệu tr-ởng.
 - Bây giờ cần:
 + Ngoài những yêu cầu nh- tr- ớc đây, GVCN là ng- ời thiết kế, tổ chức quan hệ 
phối hợp các lực l- ợng trong và ngoài nhà tr- ờng nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục 
toàn diện, phát triển tiềm năng của XH và nhà tr- ờng, phát huy tốt nhất, tối đa khả năng 
của HS.
 Ta có thể thấy rõ hơn qua bảng so sánh sau đây: Để thực hiên đ-ợc chức năng, nhiêm vụ công tác chủ nhiêm trong giai đoạn mới đòi hỏi 
thầy cô giáo chủ nhiêm phải có:
 - Trí: Không chỉ là kiến thức môn học mà còn cần kiến thức, nghê thuật giáo dục, 
về quản lý giáo dục, về các kiến thức khoa học xã hội, nhân văn về chính trị. Phải có kiến 
thức thực tế, phải cập nhật với kiến thức mới, hiện đại (ví dụ ).
 - Tâm: Là hê thống các giá trị nhân cách, Tâm còn là lý t-ởng nghề nghiêp (Đam 
mê với nghề), Tâm còn là phẩm chất tâm lý (ý chí, nghị lực bình tĩnh, tự kìm chế, năng 
động, sáng tạo) là cuộc sống tâm hổn, sống lạc quan, yêu đời...)
 - Tầm: Tầm nhìn là ph-ơng pháp luận giải quyết biên chứng các sự kiên, hiên t- 
ợng giáo dục, tổ chức giáo dục theo một hệ thống viễn cảnh (từ gần đến trung bình và 
xa).
1.2. Phương pháp kỷ luật tích cực
 1.2.1. PPKLTC là gì?
 Phương pháp kỷ luật tích cực trong nhà trường là biện pháp giáo dục học 
sinh mà không sử dụng đến các hình thức bạo lực, trừng phạt; trong đó giáo viên, 
cán bộ giáo dục áp dụng các hình thức kỷ luật tích cực, phù hợp để giúp học sinh 
giảm thiểu những hành vi không phù hợp, củng cố các hành vi tích cực và phát 
triển nhân cách một cách tốt đẹp, bền vững.
 PPKLTC được thực hiện dựa trên một số nguyên tắc sau:
 • Vì lợi ích tốt nhất của học sinh: Mọi hành động, biện pháp kỷ luật mà giáo 
 viên áp dụng là nhằm mang lại lợi ích tốt nhất cho học sinh để các em có thể 
 phát huy tốt nhất các tiềm năng của mình.
 • Không làm tổn thương đến thể xác và tinh thần của học sinh: Các hình 
 thức, biện pháp giáo dục, kỷ luật đối với học sinh, trong mọi trường hợp, 
 không được xâm hại đến thân thể cũng như tinh thần của các em. Các biện 
 pháp can thiệp phải tập trung, hướng vào hành vi của học sinh, không phải 
 để phê phán con người, nhân cách của học sinh. Dưới góc độ này, Đối với học sinh: Khi giáo viên áp dụng PPKLTC, học sinh sẽ có nhiều cơ 
hội được chia sẻ và bày tỏ, được mọi người quan tâm hơn. Các em sẽ cảm thấy tự 
tin hơn khi đứng trước thầy cô và bạn bè. Các em cũng tích cực, chủ động, sáng 
tạo hơn trong học tập. Ngoài ra, các em cũng phát triển được tốt hơn các kỹ năng 
sống về mặt xã hội.
 Đối với ngành giáo dục và xã hội: Rõ ràng khi việc áp dụng PPKLTC giúp 
ích cho học sinh và giáo viên thì chất lượng của việc dạy và học sẽ được nâng lên. 
Bên cạnh đó, PPKLTC sẽ giúp giảm bớt các vụ việc bạo lực trong nhà trường cũng 
như ngoài xã hội, một vấn đề khá nóng trong thời gian gần đây. Mối quan hệ tốt 
đẹp giữa thầy cô và học sinh, môi trường giáo dục thân thiện, tích cực, hiệu quả 
mà PPKLTC góp phần đem lại cũng là một trong những mục đích của phong trào 
xây dựng “Trường học thân thiện” mà Bộ Giáo dục và Đào tạo phát động trên cả 
nước thời gian vừa qua.
 1.2.3. Một số nội dung cơ bản của PPKLTC
 Khi đề cập đến PPKLTC, rất nhiều khía cạnh khác nhau về kiến thức và kỹ 
năng dành cho người lớn được đề cập. Tuy nhiên, một số kiến thức, kỹ năng cơ 
bản nhất về PPKLTC cần thiết đối với giáo viên là:
 a) Hiểu nhu cầu của trẻ và mục đích sai lệch của hành vi tiêu cực ở trẻ
 Ngoài những nhu cầu sinh lý tối thiểu như ăn, uống, ngủ, nghỉ,... cũng giống 
như người lớn, trẻ em còn cần được đáp ứng các nhu cầu về tâm lý, xã hội để phát 
triển toàn diện. Năm trong số những nhu cầu quan trọng nhất của trẻ bao gồm: 
Được an toàn; Được yêu thương; Được tôn trọng; Được hiểu và cảm thông; và 
Được cảm thấy có giá trị.
 Với học sinh, các em rất cần được giáo viên, cán bộ giáo dục trong nhà 
trường có những cách thức xử sự phù hợp để đáp ứng những nhu cầu trên của 
mình. Các em sẽ cảm thấy được an toàn nếu thầy cô có lòng khoan dung, coi lỗi 
lầm là cơ hội để trẻ sửa sai và thay đổi tốt hơn. Các em sẽ thấy mình được yêu 
thương khi thầy cô có những cử chỉ nhẹ nhàng, ân cần, dịu dàng, thân mật. Khi Nội quy, nề nếp là cơ sở để học sinh hiểu được hành vi nào là phù hợp, hành 
vi nào là không phù hợp, đâu là việc các em có thể làm và đâu là việc các em không 
thể làm. Việc xây dựng, duy trì nội quy lớp học là vô cùng cần thiết. Tuy nhiên, 
làm thế nào để có thể đưa ra được những nội quy tốt, phù hợp và đảm bảo sự tuân 
thủ thực hiện của học sinh thì không phải lúc nào cũng dễ dàng.
 Khi xây dựng nội quy lớp học, các thầy cô cần đảm bảo có sự trao đổi, thảo 
luận với học sinh. Học sinh thường có thiên hướng tự nguyện làm theo những gì 
mình đã được trao đổi, đã đồng ý, cam kết thực hiện hơn là bị bắt buộc làm theo 
các yêu cầu được đưa từ trên xuống. Quá trình trao đổi, thảo luận với thầy cô về 
các nội quy một phần sẽ giúp các em hiểu, nhập tâm về việc được quy định, đồng 
thời thấy mình cần có trách nhiệm hơn với việc tập thể đã trao đổi và thống nhất.
 Nội quy của lớp học được đưa ra cần ngắn gọn, rõ ràng, dễ nhớ, dễ hiểu. 
Các nội quy cần được xây dựng dựa trên những yêu cầu của thực tế, thực sự cần 
thiết cho các em, cho lớp học, chứ không phải những khẩu hiệu mang tính giáo 
điều, chung chung, khó tuân thủ và thực hiện. Giáo viên là người “cầm cân nảy 
mực”, cần suy nghĩ thấu đáo và cảm thông với các em khi đưa ra các nội quy: 
Những quy định đó có thực sự là bắt buộc không hay các em có thể có những trao 
đổi, thương lượng phù hợp? Ngoài ra, các em cũng cần được giải thích, hiểu rõ 
được hậu quả nếu có của việc không tuân thủ các nội quy đã được đề ra.
 Việc đề ra nội quy lớp học đã khó, việc duy trì và củng cố nội quy sẽ càng 
khó hơn. Bản tính hiếu động, dễ quên của nhiều học sinh cần nhận được sự cảm 
thông từ phía giáo viên. Một mặt, các thầy cô cần nghiêm khắc nhắc nhở, cảnh báo 
các em về những hậu quả nếu không tuân thủ nề nếp, nội quy. Một mặt các thầy 
cô cùng cần mở cho các em những lựa chọn phù hợp để khắc phục hậu quả khi các 
em đã lỡ vi phạm. Ở một chừng mực nào đó, chúng ta cần hiểu rằng phạm lỗi là 
một phần tất yếu của cuộc sống và khi phạm lỗi thì cần được tạo cơ hội hiểu biết, 
sửa sai, khắc phục hậu quả hơn là bị trừng phạt hà khắc.

File đính kèm:

  • docxskkn_mot_so_bien_phap_quan_ly_chi_dao_gvcn_thuc_hanh_phuong.docx
  • pdfSKKN Một số biện pháp quản lý chỉ đạo GVCN thực hành phương pháp kỷ luật tích cực trong phong trào t.pdf