SKKN Một số biện pháp phòng chống dịch bệnh covid-19, nhằm xây dựng MT dạy học an toàn góp phần nâng cao hiệu qủa GD toàn diện cho HS DTTS tại trường THPT
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp phòng chống dịch bệnh covid-19, nhằm xây dựng MT dạy học an toàn góp phần nâng cao hiệu qủa GD toàn diện cho HS DTTS tại trường THPT", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số biện pháp phòng chống dịch bệnh covid-19, nhằm xây dựng MT dạy học an toàn góp phần nâng cao hiệu qủa GD toàn diện cho HS DTTS tại trường THPT

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN Trường THPT Mường Quạ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Tên đề tài MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÒNG CHỐNG DỊCH BỆNH COVID - 19, NHẰM XÂY DỰNG MÔI TRƯỜNG DẠY HỌC AN TOÀN GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUA GIÁO DỤC TOÀN DIỆN CHO HỌC SINH DÂN TỘC THIỂU SỐ TẠI TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG MƯỜNG QUẠ Lĩnh vực: Quản lý Người thực hiện: - Đặng Văn Bằng - Đậu Xuân Dương Số điện thoại: 0917.213.666 - 0984.897.453 Năm học: 2021 - 2022 13. Tiêm vắc xin đầy đủ, kịp thời cho viên chức, người lao động và học sinh: .............................................................................................................................34 14. Thực hiện các hình thức dạy học, giáo dục linh hoạt:..................................34 15. Tích cực ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học và trong công tác phòng chống dịch: ......................................................................................................35 16. Gắn thực hiện nhiệm vụ phòng chống dịch Covid - 19 vào thi đua khen thưởng:........................................................................................................................36 III. Kết quả đạt được. 1. Xây dựng được môi trường dạy học an toàn:.................................................36 2. Kết quả xếp loại hai mặt của học sinh dân tộc:..............................................37 3. Một số chỉ tiêu khác:......................................................................................37 C. Kết luận. 1. Kết luận: .........................................................................................................38 2. Đề xuất, kiến nghị:......................................................................................40 TÀI LIỆU THAM KHẢO. A. ĐẶT VẤN ĐỀ: 1. Lý do chọn đề tài. Xây dựng môi trường dạy học an toàn là mục đích hướng tới của tất cả các nhà trường vì nó đảm bảo cho người dạy, người học sự tự tin, thoải mái, cảm giác được chăm sóc bảo vệ mỗi khi học tập và giảng dạy. Xây dựng môi trường dạy học an toàn tạo uy tín cho Nhà , sự yên tâm của phụ huynh khi con em học tập rèn luyện tại các nhà trường. Trong bối cảnh hiện nay tiểm ẩn nhiều yếu tố gây mất an toàn trong đó có yếu tố mới phát sinh từ cuối năm 2019 đến nay. Dịch bệnh Covid - 19 xuất hiện và bùng phát mạnh mẽ trên toàn thế giới đã đặt nhân loại trước thử thách sinh tồn, nó để lại nhiều hậu quả nặng nề về kinh tế và nhân mạng con người. Hiện nay trên thế giới có hàng trăm triệu người nhiễm bệnh và hơn sáu triệu người tử vong, nền kinh tế nhiều nước bị tàn phá nặng nề đẩy hàng trăm triệu người rơi vào hoàn cảnh nghèo đói. Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, các nước mở cửa giao thương về kinh tế, văn hóa...do đó khi dịch bệnh bùng phát nó nhanh chóng lan rộng ra toàn thế giới. Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh cải cách mở cửa do đó những ảnh hưởng từ dịch bệnh Covid - 19 nhanh chóng lan truyền và bùng phát tại Việt Nam. Dịch bệnh Covid - 19 đã gây thiệt hại lớn trên mọi mặt đời sống kinh tế xã hội, tác động đến mọi tầng lớp nhân dân. Ngành giáo dục và đào tạo chịu ảnh hưởng rất lớn, dịch bệnh bùng phát đã làm thay đổi hình thức dạy học truyền thống. Để xây dựng môi trường dạy học an toàn, vừa dạy học vừa phòng chống dịch bệnh nhưng phải đảm bảo tiến độ chương trình, đảm bảo chất lượng giáo dục. Trước tình hình đó nhiều giải pháp sát thực hiệu quả được Bộ Giáo dục và Đào tạo thực hiện như tinh giản chương trình, kết hợp linh hoạt các hình thức dạy học... Qua tìm hiểu thực tiễn tại một số trường THPT, khi dịch bệnh bùng phát nhiều trường đã lựa chọn giải pháp an toàn là cấm tất cả các hoạt động giáo dục tập trung đông học sinh, tổ chức dạy học trực tuyến. Hình thức dạy học trực tuyến có một một số mặt tích cực như: Rèn luyện kỹ năng ứng dụng công nghệ số cho học sinh và giáo viên, thích ứng với xu thế toàn cầu. Tuy nhiên hình thức dạy học này cũng bộc lộ rất nhiều hạn chế, nhất là đối với các trường miền núi vùng cao và đối tượng là học sinh dân tộc thiểu số: Nhiều học sinh sau khi hoạc trực tuyến kéo dài đã có các biểu hiện bất thường về tâm sinh lý như tự kỷ, lãnh cảm, xa rời thực tế, bạo lực học đường, dễ sa ngã hoặc bị lôi kéo dẫn đến vi phạm pháp luật như đánh bạc qua mạng, dễ bị dụ dỗ lôi kéo vào các tệ nạn xã hội hoặc là nạn nhân bị lừa đảo qua mạng vì các em thiếu những kỹ năng ứng xử cần thiết, chưa có sức đề kháng với những văn hóa độc hại trên không gian mạng. Ngoài những tác hại đó thì trong hoàn cảnh và điều kiện hạ tầng ở Từ kết quả nghiên cứa của đề tài có thể áp dụng các giải pháp tại các trường vùng biên giới có học sinh dân tộc thiểu số khác trong tỉnh Nghệ An và cả nước. 3. Khả năng ứng dụng của đề tài. Đề tài có khả năng ứng dụng thực tiễn cao, phạm vi ứng dụng của đề tài rộng. Đề tài không chỉ áp dụng cho trường THPT Mường Quạ mà còn áp dụng cho nhiều trường, đặc biệt là những trường ở các huyện miền núi có đặc điểm tương đồng trong tỉnh Nghệ An như Kỳ Sơn, Tương Dương, Quế Phong, Quỳ Châu... B. NỘI DUNG I. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN - XÃ HỘI 1. Đặc điểm địa lý, dân cư huyện Con Cuông. Con Cuông là huyện miền núi tây nam tỉnh Nghệ An, diện tích tự nhiên của huyện là 1.738,53km2. Sau nhiều lần sáp nhập và chia tách, đến nay toàn huyện có 12 xã và 1 thị trấn. Địa giới hành chính phía bắc giáp huyện Tương Dương, phía tây nam giáp nước CHDCND Lào với đường biên giới dài 55,5 km, phía đông và đông nam giáp huyện Anh Sơn, phía bắc và đông bắc giáp huyện Quỳ Hợp và Tân Kỳ. Là huyện vùng cao, lợi thế về vị trí là điều kiện thuận lợi để phát triển nông-lâm nghiệp và du lịch, thương mại. Dân gian có cách giải thích về tên gọi Con Cuông khá thú vị. Xưa kia, khúc sông Cả (sông Lam) chảy qua nơi này dần tụ thành một khu đất. Chiều chiều, đàn Công ở trên các cánh đồng thường tụ tập về nhảy múa. Vì vậy người dân gọi vùng đất này là Con Công. Lâu ngày, tên gọi bị biến âm thành Con Cuông. Con Cuông được biết đến với "Núi chẳng cao, nước cũng chẳng sâu; Tranh sơn thuỷ một màu ai khéo vẽ" như câu thơ khắc hoạ của Trạng Bùng - Phùng Khắc Khoan; bởi địa danh Trà Lân sôi sục "trúc chẻ tro bay" của Bình Ngô đại cáo. Toàn bộ lãnh thổ Con Cuông phân cách bởi sông Cả tạo thành 2 vùng hữu ngạn và tả ngạn rõ rệt: Vùng hữu ngạn sông Lam (các xã Môn Sơn, Lục Dạ. Yên Khê, Chi Khê, Châu Khê, Lạng Khê, Bồng Khê và thị trấn Con Cuông), độ cao trung bình trên 150m. Vùng tả ngạn sông Lam: Gồm các xã Cam Lâm, Đôn Phục, Mậu Đức, Thạch Ngàn và Bình Chuẩn. Vùng này địa hình thấp, ít hiểm trở hơn, có nhiều thung lũng và khe suối. Con Cuông nằm trong tiểu vùng khí hậu Bắc Trung Bộ với đặc điểm chung là nhiệt đới ẩm gió mùa; có hai mùa: mùa nóng (mưa nhiều) từ tháng 4 đến tháng 10 và mùa lạnh (mưa ít) từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau; xen giữa là hai mùa chuyển tiếp. Mùa hạ chịu tác động mạnh mẽ của gió Phơn tây nam bị biến tính rất khô và nóng, mùa đông chịu ảnh hưởng của gió mùa đông bắc lạnh, có mưa phùn. Con Cuông đồng thời cũng chịu ảnh hưởng trực tiếp của thời tiết miền núi tây nam Nghệ An nên có Sự hình thành dân cư: Với địa hình chủ yếu là đồi núi, các dân tộc anh em đã cùng nhau tạo dựng cuộc sống nơi đây, cư dân ở đây chủ yếu là người Thái, Đan Lai, Nùng với mật độ dân số là 57 người/km 2 , mật độ dân số tương đối thấp so với các khu vực khác và trong cả nước. Xét về địa hình cư trú thì người Thái, người Đan Lai, Nùng chủ yếu cư trú trên địa hình cao, đồi núi nhiều, giao thông đi lại khó khăn, đặc biệt vào mùa mưa lũ. Do đó kinh tế chủ yếu của họ là trồng trọt trên nương rẫy và phát triển chăn nuôi, đặc biệt là chăn thả. Người dân tộc Kinh cư trú chủ yếu ở những nơi trung tâm, những nơi có địa hình thấp và bằng phẳng, giao thông đi lại thuận lợi như thị trấn, trung tâm xã, chợ...Riêng hai địa điểm thị Trấn và xã Bồng Khê có trên 9 nghìn người sinh sống chiểm 54% số người Kinh trên địa bàn huyện Con Cuông. Về Lịch sử: Con Cuông là mảnh đất giàu truyền thống cách mạng, theo sử sách ghi chép lại thì từ xa xưa con người nơi đây đã anh dũng chiến đấu bảo vệ vùng lãnh thổ biên thùy của tổ quốc, lập nên chiến công hiển hách với:"miền Trà Lân trúc chẻ tro bay". Đến thời kỳ cách mạng, Con Cuông là nơi Chi bộ đảng đầu tiên của miền tây xứ Nghệ được thành lập. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã có 500 người con ưu tú của huyện Con Cuông anh dũng hi sinh để bảo vệ tổ quốc, 157 thương binh, 140 bệnh binh, 7 bà mẹ Việt Nam anh hùng, 01 anh hùng lực lượng vũ trang (Vi Văn Cường), 01 người hai lần được phong anh hùng lao động là (Nguyễn Ngọc Lài)... Về giáo dục: Con Cuông là địa bàn miền núi cao, cư dân chiếm đa số là người dân tộc Thái. Tuy cuộc sống vật chất còn nhiều khó khăn nhưng với tư chất thông minh sáng tạo, tinh thần hiếu học và dễ thích ứng nên giáo dục Con Cuông tương đối phát triển so với các huyện miền núi khác trong cả nước và trong tỉnh Nghệ An. Tuy nhiên so với chất lượng giáo dục các vùng đồng bằng, thành thị trong Tỉnh Nghệ An nói riêng và trong cả nước nói chung thì còn có sự cách biệt khá lớn. 2. Địa bàn tuyển sinh trường trung học phổ thông Mường Quạ. Tự nhiên: Toàn bộ lãnh thổ Con Cuông phân cách bởi sông Cả tạo thành 2 vùng hữu ngạn và tả ngạn rõ rệt: Vùng hữu ngạn Sông Lam gồm các xã Môn Sơn, Lục Dạ. Yên Khê, Chi Khê, Châu Khê, Lạng Khê, Bồng Khê và thị trấn Con Cuông). Địa hình gồm các dãy núi chạy theo hướng tây bắc - đông nam, độ cao trung bình trên 150m. Con Cuông đất không rộng, diện tích chủ yếu là rừng núi, đất sản xuất nông nghiệp ít và cằn cỗi. Thung lũng lớn nhất là cánh đồng Mường Quạ, nơi có dòng sông Giăng trong xanh đem nước tưới tiêu quanh năm. Nơi đây nổi tiếng với giống lúa nếp Hin thơm ngon và cá Mát sông Giăng có vị đắng đặc trưng đã làm nức lòng bao thực khách. Bởi thế nên có câu ca ngợi những đặc sản đó: "cơm kẻ Quạ, cá sông Giăng". thức cao trong việc học hỏi, nâng cao tay nghề sẽ dễ dẫn đến tụt hậu về kiến thức, phương pháp không sát hợp với đối tượng học sinh. Trong những năm qua được sự quan tâm giúp đỡ của Bộ GD&ĐT, Sở GD&ĐT, sự quan tâm giúp đỡ của chính quyền các cấp nên công tác giáo dục tại địa phương được chú trọng và có nhiều biến chuyển tích cực. Nhiều chế độ chính sách được Đảng và Nhà nước hỗ trợ cho giáo viên công tác tại vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn như chế độ thu hút theo Nghị định 61...Những chế độ chính sách trên đã góp phần quan trọng động vên giáo viên tích cực bám lớp, bám trường, tích cực học tập nâng cao tay nghề. Tuy nhiên sự phát triển của chất lượng giáo dục còn chậm, bộc lộ nhiều mặt hạn chế, chưa rút ngắn được khoảng cách đối với các vùng miền khác, đặc biệt là vùng đồng bằng và thành thị. Do đó cần phát huy các điều kiện thuận lợi từ bên ngoài, đồng thời nhà trường cần tìm các giải pháp căn cơ để phát huy tối đa trong việc nâng cao chất lượng giáo dục tại đơn vị, tránh sự lãng phí lớn về của cải vật chất và thời gian của xã hội, đồng thời đáp ứng sự kỳ vọng của Đảng, Nhà nước và chính quyền địa phương các cấp. Và hơn hết là niềm tin của nhân dân, của học sinh về chất lượng giáo dục của nhà trường. - Thống kê số liệu học sinh dân tộc trong 03 năm của trường THPT Mường Quạ từ năm học 2019 - 2020 đến năm học 2021 - 2022 như sau: Năm học Phân loại HS Tổng số Khối 10 Khối 11 Khối 12 Tổng số HS 404 167 131 106 Nữ 203 86 67 50 2019-2020 TS HS dân tộc 380=94.1% 163=97.6 % 119=90.8 % 98=92.5 % Nữ DT 193=47.8% 85=50.9% 63=48.1% 45=42.5 Vùng KT-XH ĐBKK 404 167 131 106 Tổng số HS 440 158 161 121 Nữ 221 76 82 63 108=89.3 2020-2021 TS HS dân tộc 410=93.2% 145=91.8 % 157=97.5 % % Nữ DT 209=47.5% 70=44.3% 81=50.3% 58=47.9 %
File đính kèm:
skkn_mot_so_bien_phap_phong_chong_dich_benh_covid_19_nham_xa.docx
SKKN Một số biện pháp phòng chống dịch bệnh covid-19, nhằm xây dựng MT dạy học an toàn góp phần nâng.pdf