SKKN Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng môn Làm quen văn học cho trẻ 5-6 tuổi lớp Lá 2 trường Mầm non Krông Ana
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng môn Làm quen văn học cho trẻ 5-6 tuổi lớp Lá 2 trường Mầm non Krông Ana", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng môn Làm quen văn học cho trẻ 5-6 tuổi lớp Lá 2 trường Mầm non Krông Ana
I. Phần mở đầu 1. Lý do chọn đề tài Như Bác Hồ đã nói: “Dạy trẻ cũng giống như trồng cây non Trồng cây non được tốt thì sau này các cháu thành người tốt” Thấm nhuần lời dạy của Bác, công tác giáo dục mầm non – những người chủ tương lai của đất nước đã, đang và sẽ là chủ trương lớn của toàn Đảng, toàn dân. Để thực hiện tốt mục đích giáo dục này, bậc học mầm non đã có nhiều bước chuyển lớn nhằm góp phần đặt nền móng đào tạo con người phát triển toàn diện – có đủ sức khoẻ, đủ trí tuệ và tài năng. Để thực hiện được mục tiêu đó đòi hỏi người giáo viên mầm non phải có tấm lòng yêu nghề, mến trẻ thực sự. Cô giáo như người mẹ thứ hai, gần gũi, yêu thương để giáo dục trẻ hình thành những cơ sở ban đầu về nhân cách. Một trong những bộ môn của ngành học mầm non mà tôi quan tâm để đầu tư thực hiện nhiệm vụ trên đó là bộ môn cho trẻ làm quen với văn học. Đặc biệt là việc giúp trẻ có vốn từ phong phú và khả năng diễn đạt mạch lạc, diễn cảm, dễ đi vào lòng người được tôi quan tâm nhất khi cho trẻ tiếp xúc với tác phẩm văn học. Trong trường mầm non hoạt động văn học có một vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân cách cho trẻ và văn học phù hợp với tâm sinh lý của trẻ. Trẻ thích những câu chuyện cổ tích có ông Bụt, bà Tiên hiện lên giúp đỡ những người hiền lành, người nghèo khổ. Hay qua câu chuyện thần thoại, truyền thuyết tâm hồn trẻ luôn tưởng tượng bay bổng đầy ước mơ. Trẻ cảm phục lòng dũng cảm của các vị anh hùng trong tình tiết chiến trận. Thông qua hoạt động văn học giúp trẻ nhận thức được thế giới xung quanh, những truyền thống đạo lý tốt đẹp của dân tộc từ đó bồi dưỡng cho trẻ các tính cách trung thực, hiền lành, chăm chỉQua đó giáo dục trẻ lòng yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước. 1 2.Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài *Mục tiêu: Với đề tài này nhằm bồi dưỡng cung cấp thêm cho giáo viên một số kiến thức, kỷ năng để tổ chức hoạt động Làm quen Văn học nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ có hiệu quả hơn. Kiến thức cung cấp cho trẻ phải có trình tự, hợp lý và thống nhất, đồng thời phải chính xác, thiết thực và mang tính ứng dụng cao. Việc hình thành và rèn luyện cho giáo viên kĩ năng tổ chức, tiến hành một số hình thức cho trẻ 5 – 6 tuổi, trẻ làm quen Văn học ở trường mầm non là rất cần thiết, giúp giáo viên phải tự giác học hỏi trong thực tiễn, sáng tạo và biết tự rút kinh nghiệm. Muốn cho trẻ phát triển ngôn ngữ tốt, nhất là trẻ 5 - 6 tuổi, ngôn ngữ của trẻ được phát triển diễn đạt mạch lạc thông qua hoạt động làm quen Văn học thì người giáo viên phải biết truyền cảm xúc của mình cho trẻ, phải dạy trẻ bằng chính thái độ và hành vi ứng xử của mình đối với những tác phẩm văn học. *Nhiệm vụ: Thông qua hoạt động Làm quen Văn học để phát triển toàn diện cho trẻ nhất là lĩnh vực phát triển ngôn ngữ. Việc tổ chức cho trẻ làm quen Văn học là giáo viên phải biết đưa ra các biện pháp hữu ích. Biết dạy trẻ cảm nhận nhịp điệu, âm điệu của bài thơ, ca dao, đồng dao, dạy trẻ biết kể lại chuyện một cách diễn cảm, trẻ biết nói lên những cái hay, cái đẹp về nội dung của tác phẩm, giúp trẻ ghi nhớ bài thơ, câu chuyện và đọc, kể lại một cách diễn cảm. Từ đó, trẻ phát triển ngôn ngữ giao tiếp một cách biểu cảm và mạch lạc. 3. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng môn làm quen văn học cho trẻ 5 – 6 tuổi lớp lá 2 trường mầm non Krông Ana 4.Giới hạn của đề tài - Phạm vi nghiên cứu là một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng môn làm quen văn học cho trẻ 5 – 6 tuổi trường mầm non Krông Ana 3 ngữ cho trẻ được tích hợp trong tất cả hoạt động giáo dục trẻ, và nhất là trong hoạt động Làm quen văn học. Vì vậy, dạy cho trẻ Mầm non nói chung và cho trẻ 5 - 6 tuổi nói riêng biết cảm nhận văn học của giáo viên Mầm non là cực kỳ quan trọng trong việc giáo dục ngôn ngữ cho trẻ. Giáo viên cần có những kiến thức, kỷ năng, biện pháp, thủ thuật, biết tận dụng các cơ hội có được mới có thể nâng cao chất lượng tổ chức Làm quen Văn học để phát triển ngôn ngữ cho trẻ một cách tốt nhất. 2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu Lớp có đầy đủ cơ sở vật chất trang thiết bị, đồ dùng dạy học phục vụ cho cô và trẻ. Được sự quan tâm của ban giám hiệu nhà trường phân công cho 2 giáo viên đứng lớp đều trẻ, tâm huyết với ngành học, yêu nghề mến trẻ, có phẩm chất nghề nghiệp, có trình độ chuyên môn tiếp thu nhanh với những đổi mới trong chương trình. Giáo viên luôn được sự quan tâm chỉ đạo sát sao về chuyên môn tạo điều kiện thuận lợi cho việc học tập bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ. Giáo viên đều là người địa phương gần trường, gần lớp, gần gũi với phụ huynh. Với tổng số học sinh 5 – 6 tuổi là 37 cháu; trong đó nữ 20; dân tộc 1; nữ dân tộc 1 Được sự giúp đỡ nhiệt tình của đồng nghiệp, phụ huynh và học sinh, nên tôi vận dụng các biện pháp mới cũng thuận lợi hơn. Bên cạnh những ưu điểm trên trong thời gian nghiên cứu đề tài tôi cũng gặp không ít vấn đề hạn chế và có mặt yếu kém như: Số trẻ đông, một số trẻ thể lực yếu nên tiếp thu chậm hơn so với các bạn. Gia đình học sinh còn khó khăn nên phụ huynh chưa cho trẻ tiếp xúc nhiều với các loại hình nghệ thuật. - Từ khảo sát thực tế tôi thu được kết quả sau: 5 một cách đúng đắn nhất qua giao tiếp và tập cho trẻ làm quen văn học đặc biệt là thể loại chuyện kể. 3. Nội dung và hình thức của giải pháp a. Mục tiêu của giải pháp Nhằm rèn kỹ năng đọc diễn cảm cho trẻ 5 - 6 tuổi ở trường mầm non đạt hiệu quả cao trong dạy và học; Các cháu hứng thú tham gia vào các hoạt động, đọc kể diễn cảm một cách lưu loát, tự nhiên Cô giáo khi truyền thụ kiến thức cho trẻ được mềm dẻo linh hoạt hơn. Các giải pháp đưa ra sẽ giúp cho giáo viên có thêm kỹ năng thủ thuật để tổ chức cho trẻ Làm quen văn học có hiệu quả. Giáo viên biết phân tích nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Giáo viên nắm được kỷ thuật đọc và kể, phát âm rõ ràng, sử dụng các phương tiện biểu cảm ngữ điệu (tốc độ, nhịp điệu, ngừng nghỉ, điều chỉnh độ nhanh chậm, cường độ giọng). Làm cho việc tiếp thu kiến thức của trẻ trở nên dễ dàng và sự ghi nhớ giàu cảm xúc để phát triển ngôn ngữ của trẻ trở nên bền vững và chính xác hơn. b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp Biện pháp 1: Giáo viên phải nhận thức đúng về tầm quan trọng của việc đọc diễn cảm. Cho trẻ tiếp cận với các bài thơ, ca dao, đồng dao, câu chuyện là một trong những phương tiện có hiệu quả mạnh mẽ đối với việc giáo dục trí tuệ, đạo đức thẩm mỹ cho trẻ, và điều rất quan trọng là nó có ảnh hưởng lớn tới sự phát triển và làm phong phú lời nói của trẻ. Cô giáo cần đem đến cho trẻ tác phẩm văn học như một tác phẩm nghệ thuật, mở ra ý nghĩa của nó, truyền cho trẻ thái độ xúc cảm đối với các nhân vật của tác phẩm, có nghĩa là truyền đạt bằng ngữ điệu thái độ của mình đối với các 7 Trong khi cho trẻ làm quen với thể loại của truyện, cần phân tích tác phẩm mở ra ý nghĩa xã hội của hiện tượng được miêu tả, mối quan hệ qua lại giữa các nhân vật, hướng chú ý của trẻ vào các từ ngữ để nêu được tính cách của từng nhân vật. những câu hỏi nêu ra sau khi kể chuyện phải làm sáng tỏ cả nội dung, cả kĩ năng đánh giá hành động, hành vi của các nhân vật. Ví dụ: Sau khi kể truyện “Hai anh em” cô có thể hỏi: “Người anh là người như thế nào? Người em có chăm chỉ như vậy không? Ai đã cứu người em khỏi chết đói? Người anh chăm chỉ như thế nào? Vì sao cháu biết người em lười viếng Và cần đặc biệt chú ý những câu hỏi về các phương tiện biểu cảm trong các bài thơ về thiên nhiên. Ví dụ: Sau khi đọc xong bài thơ Gà nở của Phạm Hổ, cần đặt cho trẻ các câu hỏi: Nhà thơ đã nói gà mẹ thế nào? (buộc trẻ lại phải nhớ lại các từ: Gà mẹ xơ xác, đôi mắt có quầng nhưng mẹ càng kiêu hãnh vì có đàn con): Gà con thế nào? Như hòn tơ nhỏ; líu xíu chạy sau, chạy như lăn tròn Sau khi đọc bài thơ: Trăng ơi từ đâu đến, có thể hỏi: Trần Đăng Khoa đã ví trăng như thế nào? Trăng hồng như quả chín, trăng tròn như mắt cá, trăng bay như quả bóng Trả lời được các câu hỏi này tức là chú ý, cảm nhận của trẻ đã tập trung vào những giá trị nghệ thuật của các bài thơ. Mặt khác cần đặc biệt chú ý cho trẻ tri giác tác phẩm trong sự thống nhất của nội dung và hình thức khi đọc thơ và dạy trẻ đọc thơ thuộc lòng. Tất cả các bài thơ phải được cô học thuộc lòng chứ không phải cầm sách đọc, chỉ khi đó cô mới chủ động thể hiện diễn cảm ngữ điệu, nhịp điệu, mức độ. Không nên yêu cầu trẻ ghi nhớ ngày lập tức vì điều này làm cho trẻ xao lãng chú ý vào nhạc tính của bài thơ. Hãy để cho các cháu trước hết cảm nhận vẻ đẹp, sự du dương của bài thơ, nhận thức sâu hơn nội dung của nó. Sau khi đọc cần trao đổi để làm rõ trẻ có hiểu hay không. Chẳng hạn, sau khi đọc bài thơ Làm anh của Phan Thị Thanh Nhàn, cô có thể nêu câu hỏi: Bài thơ nói về cái gì (làm anh phải như thế nào); Thế làm anh phải thế nào? Ai có em bé nói cho cô và các bạn nghe: Phải dỗ em, phải nhường em, có 9 Cô và trẻ đàm thoại dựa vào tri giác tác phẩm; dùng câu hỏi không cần để làm rõ và chính xác hóa biểu tượng của trẻ, mà có thể cho xem tranh minh họa nhằm kích thích trạng thái xúc cảm của trẻ Đàm thoại theo nội dung và hình thức của tác phẩm vừa kể, câu hỏi của cô phải được cân nhắc, lựa chọn cẩn thận. Ngoài những câu hỏi tiêu biểu về sự hiểu biết của trẻ và những gì ở trong câu chuyện, cái gì là mới đối với trẻ, những nét đặc tính căn bản của nhân vật chính mà trẻ yêu thích là gì, còn cần có những câu hỏi phát hiện hình thức nghệ thuật của tác phẩm. Đó là những câu hỏi làm rõ tác giả đã miêu tả các hiện tượng như thế nào, đã so sánh nó với cái gì, những từ, câu nào trẻ thích và nhớ, những gì khác lạ đối với trẻ. Cuộc trao đổi như vậy cũng cố tri giác toàn vẹn về tác phẩm văn học trong sự thống nhất của nội dung và hình thức. Phần này không cần kéo dài quá, chỉ nên cho trẻ đàm thoại 5-6 câu hỏi. Phần trẻ kể lại chuyện: Cần nhớ rằng phần quan trọng của tiết học chính là việc trẻ kể tự kể lại chuyện. Để gây hứng thú cho trẻ, giáo viên cần có nhiều hình cho trẻ kể lại chuyện. (trẻ kể chuyện diễn cảm, kể chuyện theo tranh, tập đóng kịch...) Trẻ được học kể chuyện, xây dựng các câu đúng ngữ pháp, truyền đạt lại một cách chặt chẽ và tuần tự nội dung, sử dụng từ, cách thể hiện của tác giả cũng như lời của chính mình để truyền đạt lại nội dung câu chuyện. Điều rất quan trọng là làm sao cho khi trẻ kể chuyện lời nói hình ảnh nghệ thuật của nhân vật trong chuyện thành lời của riêng trẻ. (trẻ kể diễn cảm biết kết hợp cử chỉ điệu bộ). Nếu câu chuyện không dài, trẻ có thể kể lại một cách đầy đủ. Câu chuyện dài hơn cần chia thành các phần và cho trẻ kể theo các phần đó (cô nêu nhận xét trước lôgic các phần đó). Cần nêu ra những câu hỏi dự định trước cho các cháu gặp khó khăn khi kể lại. Chỉ dùng câu hỏi để gởi ý, nhắc nhở, (chú ý không có quá nhiều câu hỏi). Câu hỏi phải cụ thể, không làm cho trẻ lãng quên nội dung câu chuyện. Thỉnh thoảng cô nhắc trẻ một vài hành động nhân vật, một vài từ ngữ trẻ bỏ qua hoặc quên (từ ngữ đó liên quan đến nội dung chính của câu chuyện). 11 Hướng dẫn trẻ kể chuyện sáng tạo khác với hướng dẫn trẻ kể lại chuyện. Kể lại chuyện tức là trẻ chỉ cần kể lại sao cho giống câu chuyện đã được nghe, được kể. Còn kể chuyện sáng tạo là đòi hỏi trẻ không những phải biết kể lại chuyệ, mà còn phải biết phát triển câu chuyện, tưởng tưởng thêm chi tiết để câu chuyện hấp dẫn, cuốn hút. Trẻ phải thể hiện câu chuyện bằng ngôn ngữ của chính bản thân trẻ. Giáo viên có thể sử dụng nhiều hình thức khác nhau để hướng dẫn trẻ kể chuyện sáng tạo. Sử dụng các loại câu hỏi có tính chất khác nhau: Sử dụng loại câu hỏi “Các con đã bao giờ kể chuyện “Ba cô gái ” chưa”? “Các con đã thấy chị Út như thế nào?; Trẻ sẽ nói về kinh nghiệm của mình. Sử dụng loại câu hỏi “ Các con sẽ làm gì nếu?: “Nếu đang đi bộ trên đường và nhìn thấy., con sẽ làm gì?”; “Nếu con là(nhân vật nào đó trong truyện) con sẽ làm gì?... + Sử dụng loại câu hỏi khuyến khích trẻ giải thích ý kiến, đánh giá “Như thế nào?” và “Tại sao?” : “Tại sao con nghĩ bạn ấy làm việc đó?” ; “Làm cách nào mà anh nông dân vác được cây tre trăm đốt về nhà?” ; “Tại sao con nghĩ như vậy?”; “Con thích nhân vật nào nhất?” ; Tại sao con thích Thỏ trắng?” ; “Tại sao (nhân vật) làm như vậy?” ; “Theo con, bạn Gấu nên làm gì?... + Sử dụng loại câu hỏi dự đoán kích thích trẻ phỏng đoán, suy nghĩ diễn biến và kết quả: Kể hoặc đọc cho trẻ một câu chuyện. Trong lúc đọc/ kể có thể dừng lại một vài lần và hỏi: “Các con nghĩ chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo?”. + Sử dụng các câu hỏi miêu tả: “Câu chuyện xảy ra ở đâu?”; “Các nhân vật trong truyện là ai?” ; “Điều gì xảy ra trong phần đầu câu chuyện?: “Tại sao con nghĩ nó lại kết thúc như thế?” ; “Giải thích tại sao con lại nghĩ như vậy?” ; “Con có thích câu chuyện này không? Tại sao?”. Đưa ra câu hỏi với thái độ khuyến khích, giọng nói nhẹ nhàng. Thu hút sự chú ý của trẻ trước khi nêu câu hỏi, nêu câu hỏi chung cho cả lớp. Gọi những trẻ 13
File đính kèm:
skkn_mot_so_bien_phap_nham_nang_cao_chat_luong_mon_lam_quen.doc

