SKKN Một số bài tập phối hợp nâng cao thành tích hai nội dung điền kinh “chạy ngắn - chạy bền” cho học sinh Lớp 8
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số bài tập phối hợp nâng cao thành tích hai nội dung điền kinh “chạy ngắn - chạy bền” cho học sinh Lớp 8", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số bài tập phối hợp nâng cao thành tích hai nội dung điền kinh “chạy ngắn - chạy bền” cho học sinh Lớp 8
PHÒNG GD & ĐT KRÔNG ANA TRƯỜNG THCS TÔ HIỆU SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: MỘT SỐ BÀI TẬP PHỐI HỢP NÂNG CAO THÀNH TÍCH HAI NỘI DUNG ĐIỀN KINH “CHẠY NGẮN – CHẠY BỀN ” CHO HỌC SINH LỚP 8 Họ và tên: NGUYỄN THỊ TUYẾT Đơn vị công tác: THCS TÔ HIỆU Trình độ: ĐẠI HỌC GIÁO DỤC THỂ CHẤT Krông Ana, tháng 4 năm 2019 DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT Chữ viết tắt - QĐ : Quyết định. - GDĐT : Giáo dục đào tạo. - GDTC : Giáo dục thể chất. - TDTT : Thể dục thể thao. - THCS : Trung học cơ sở. - % : Phần trăm. - m : Mét. - XPC : Xuất phát cao. giá được hiệu quả của các bài tập, từ đó lựa chọn được các bài tập phù hợp áp dụng trong công tác giảng dạy. Phần thứ 2: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. Cơ sở lí luận của vấn đề Như chúng ta đã biết điền kinh là môn thể thao đa dạng, bao gồm nhiều nội dung: đi bộ, chạy, nhảy, ném đẩy và nhiều môn phối hợp. Trong những nội dung của điền kinh thì nội dung chạy được giảng dạy xuyên suốt và mang lại tính hứng thú nhất trong học sinh và cũng là nội dung phát triển tốt nhất các tố chất thể lực. Chạy là phương pháp di chuyển tích cực, là một hoạt động có chu kì. Mỗi chu kì gồm hai bước chạy: Một bước chân trái, một bước chân phải. Mỗi bước chạy gồm hai thời kì gồm có thời kì chân chạm đất và thời kì bay trên không và chạy cũng là nội dung phổ biến nhất được đưa ra trong các bài tập thể lực và được sử dụng rộng rãi trong hầu hết các môn thể thao. Hơn nữa các nội dung trong môn điền kinh nói chung và môn chạy nói riêng đều đặt ra những mức quy định về thành tích phải đạt được sau quá trình tập luyện và cũng là môn mang tính chất ganh đua nhau rất quyết liệt thể hiện rất rõ trong yêu cầu kiểm tra đánh giá chạy ngắn hay chay bền phải đạt số giây, số mét quy định theo tiêu chuẩn rèn luyện thân thể, tiêu chuẩn đánh giá thể lực học sinh, sinh viên, còn trong thi đấu thì sự thắng thua đôi khi chỉ hơn kém nhau một bước chân. Chính vì thế tùy theo cự li yêu cầu mà người chạy phải biết phân phối thể lực một cách hợp lí để đạt hiệu quả cao nhất. Vì vậy, để đạt được thành tích theo tiêu chuẩn rèn luyện thân thể áp dụng cho học sinh trung học cơ sở theo công văn số 445/GDTC ngày 17/01/1998 và quyết định số 53/2008/QĐ – GDĐT ban hành quy định về tiêu chuẩn đánh giá, xếp loại thể lực học sinh, sinh viên, hay để có thể giành được chiến thắng trong các cuộc thi đòi hỏi trong quá trình giảng dạy hay bồi dưỡng học sinh môn chạy ngắn, chạy bền người giáo viên bên cạnh việc hình thành được kĩ thuật động tác cho học sinh, thì cũng phải từng bước nâng cao được hai yêu cầu về thể lực đó là thể lực chung và thể lực chuyên môn cho học sinh, hai yếu tố thể lực này có mối quan hệ mật thiết với nhau, khi học sinh có thể lực chung tốt thì mới làm nền tảng cho phát triển thể lực chuyên môn. Mà thể lực bao gồm các tố chất như sức nhanh, sức mạnh tốc độ, sức bền chuyên môn, tính linh hoạt khéo léo, mềm dẻo, Trong đó những yếu tố sức nhanh, sức mạnh tốc độ, sức bền chuyên môn là yếu tố cần thiết trong quá trình học tập nội dung chạy ngắn và chạy bền của học sinh. Bên cạnh hình thành kĩ thuật động tác, nâng cao thể lực cho học sinh cũng cần chú ý về mặt tâm sinh lí của học sinh tuổi 13 – 14, ở lứa tuổi này là giai đoạn giao thời từ trẻ em thành người lớn nên các em luôn muốn thể hiện mình là người lớn, mọi hành động của các em đều bắt chước người lớn, điều này đã tạo ra động lực muốn khám phá và tìm hiểu thế giới xung quanh. Và cũng ở lứa tuổi này quá trình nhận thức các vấn đề được nâng cao rõ rệt. Các 2 lực khá, thể lực trung bình, thể lực yếu mỗi nhóm thể lực xếp thành một hàng tập luyện trong mỗi giờ học, qua đó giúp tôi đưa ra định lượng phù hợp với các bài tập cho mỗi nhóm thể lực tương ứng trong lớp.` Kết quả kiểm tra đánh giá sức nhanh, sức bền Bảng 1A: Thành tích chạy 30m, lớp 8A1, 8A2 theo tiêu chuẩn về đánh giá, xếp loại thể lực học sinh, sinh viên . Lớp Số học sinh Kết quả thu được được khảo Tốt Tỉ lệ Đạt Tỉ lệ Chưa Tỉ lệ sát (%) (%) đạt (%) 8A1 31 4 12,9 18 58,1 9 29 8A2 31 5 16,1 16 51,6 10 32,3 Bảng 2A: Thành tích chạy tùy sức 5 phút lớp 8A1, 8A2 theo tiêu chuẩn về đánh giá, xếp loại thể lực học sinh,sinh viên . Lớp Số học sinh Kết quả thu được được khảo Tốt Tỉ lệ Đạt Tỉ lệ Chưa Tỉ lệ sát (%) (%) đạt (%) 8A1 31 1 3,2 17 54,8 13 42 8A2 31 0 0 17 54,8 14 45,2 Kết quả bảng 1A và 2A cho thấy tỉ lệ học sinh đạt kết quả loại tốt chiếm tỉ lệ thấp, học sinh xếp loại chưa đạt còn chiếm tỉ lệ khá cao. Qua kết quả cho thấy mặc dù trong cùng một lớp học tuy cùng một độ tuổi nhưng thể lực không đồng đều, chính vì thế mà một số bài tập đưa ra nhằm phát triển các tố chất thể lực trong học sinh nhiều khi không thực hiện được hoặc chỉ thực hiện được với những em có thể lực trung bình trở lên, còn những em thể lực yếu lại không đáp ứng được, hoặc những em có thể lực tốt lại quá nhẹ nhàng nên không muốn tập. Và với kết quả trên nếu trong quá trình lên lớp mà chỉ đưa ra các bài tập cùng với định lượng ở mức cơ bản áp dụng kế hoạch tập luyện chung cho cả lớp thì việc nâng cao thể lực và thành tích cho học sinh sẽ không thực hiện được nhất là những học sinh có thể lực yếu và xếp loại chưa đạt sẽ khó đáp ứng được yêu cầu của các bài tập dẫn đến các em dễ xảy ra tình trạng chán nản trong tập luyên. Cũng như không thể phát huy tối đa khả năng của những học sinh có tố chất thể lực tốt. Mà trong thể thao chỉ nắm được kĩ thuật mà không có thể lực để tham gia tập luyện thì việc nâng cao thành tích là điểu không thể. Cũng thông qua kết qủa giúp tôi rút ra được những thiếu sót còn mắc phải trong qua trình giảng dạy trên lớp cũng như trong công tác bồi dưỡng học sinh nội dung chạy ngắn, chạy bền, đó là trong quá trình lên lớp chưa nắm rõ thể lực chung của từng đối tượng học sinh để đưa ra các định mức tập 4 thực hiện của học sinh giáo viên sẽ nắm được khả năng bắt chước để thực hiện kĩ thuật động tác của các em đang ở mức độ nào. + Tùy theo độ phức tạp của kĩ thuật động tác mà giáo viên phân tách thành các giai đoạn phù hợp để hướng dẫn học sinh tập kĩ thuật động tác và bài tập bổ trợ cho các giai đoạn của động tác tương ứng. Hoàn thiện kĩ thuật động tác khi học sinh đã thực hiện thuần thục các động tác đơn lẻ. Qua đó, học sinh nắm và thực hiện được kĩ thuật động tác dễ giàng hơn. Tạo động lực cho sự tích cực trong tập luyện để hoàn thiện kĩ thuật động tác. + Cần tổ chức cho học sinh tập luyện một cách hợp lí, bố trí đội hình tập luyện động tác kĩ thuật và bổ trợ chuyên môn ở vị trí thích hợp khi phân nhóm tập luyện. Sẽ giúp giáo viên dễ quan sát để sửa sai cho các em. Hình ảnh: Học sinh đang tập giai đoạn xuất phát với bàn đạp. Bài tập 2: Một số bài tập phát triển thể lực chung. Trong mỗi buổi học cần đưa ra các dạng bài tập phát triển chung với những yêu cầu khác nhau theo nhóm thể lực tương ứng như : Chạy việt dã tùy sức, chạy biến tốc: 20m nhanh + 20m chậm với những học sinh có thể lực yếu, 30m nhanh + 30m chậm đối với những học sinh có thể lực trung bình, 40m nhanh + 40m chậm với những học sinh có thể lực khá, 50m nhanh + 50m chậm với những học sinh có thể lực tốt, bài tập chạy lặp lại trong khoảng cự li 100 – 500m với cường độ 50 – 60% cường độ tối đa. Khi áp dụng bài tập này giúp cho học sinh làm quen dần với các bài tập phát triển sức nhanh tốc độ cũng như sức bền chuyên môn. Từng bước nâng dần thể lực. Bài tập 3: Phát triển sức nhanh. Để phát triển tối đa sức nhanh trong mỗi học sinh đáp ứng yêu cầu chạy hết cự li quy định trong thời gian ngắn nhất tôi sử dụng các biện pháp sau: 6 chỗ, bật cao liên tục, nhảy lò cò, chạy đạp sau, Từ đó, học sinh phát huy tốt sức mạnh tốc độ của bản thân đồng thời phát triển sức mạnh cho đôi chân. Từng bước nâng cao được sức mạnh tốc độ cũng như sức mạnh của đôi chân. Hình: Bật xa tại chỗ Hình: Nhảy lò cò Hình ảnh: Học sinh thực hiện bài tập bổ trợ phát triển sức mạnh đôi chân. + Đưa ra và hướng dẫn học sinh thực hiện một số bài tập rèn luyện sức bền tốc độ: Ở giai đoạn về đích của chạy ngắn, chạy bền học sinh thường hay mắc tình trạng giảm tốc độ vì thế để khắc phục tôi áp dụng bài tập gắng sức chạy 10 – 20m cuối trước khi về đích với tốc độ cao nhất có thể. Qua đó giúp học sinh khắc phục được tình trạng giảm tốc độ ở cuối đoạn về đích. 8 Bài tập 6: Rèn kĩ năng thi đấu. Điền kinh là môn có tinh tranh đua rất cao, vì mỗi nội dung yêu cầu người tập phải phát huy những khả năng khác nhau như nội dung chạy ngắn thì phải phát huy tối đa sức nhanh, chạy bền thì phát huy sức bền cơ thể, nên ở bài tập này tôi sử dụng biệp pháp sau: Sau khi học sinh đã thực hiện được các giai đoạn của kĩ thuật và bước vào giai đoạn hoàn thiện kĩ thuật và nâng cao thành tích, thay vì cho học sinh lần lượt vào chạy với cự li đã đề ra thì tôi tổ chức cho học sinh thi đấu với nhau theo nhóm thể lực để lựa chọn nhất, nhì ở mỗi nhóm. Tiếp đó lấy nhất nhì ở nhóm thể lực tốt và khá chạy tranh đua nhất, nhì với nhau, rồi nhóm thể lực trung bình và yếu chạy tranh đua nhất nhì với nhau. Sau cùng tổ chức thi đấu giữa các nhất, nhì trong lớp để chọn học sinh chạy nhanh nhất, học sinh có sức bền tốt nhất trong lớp. Qua thi đấu giúp học sinh củng cố kĩ thuật, rèn luyện tâm lí thi đấu. Giúp lớp lựa chọn được học sinh tham gia hội thi học sinh giỏi thể dục thể thao cấp trường được tổ chức vào đầu tháng 12 của năm học. Cũng như giúp giáo viên phát hiện và lựa chọn học sinh vào đội tuyển điền kinh chuyên sâu nội dung chạy gắn, chạy bền để bồi dưỡng chuẩn bị cho dự thi cấp huyện. Bài tập 7: Lựa chọn đội tuyển điền kinh chuyên sâu nội dung chạy ngắn, chạy bền chuẩn bị cho hội khỏe phù đổng cấp huyện. Để nâng cao thành tích cho đội tuyển điền kinh dự thi hội khỏe phù đổng cấp huyện nội dung chạy ngắn, chạy bền, cũng như khẳng định thêm tính hiệu quả của đề tài, sau hội thi học sinh giỏi thể dục thể thao cấp trường, được sự phân công của ban giám hiệu phụ trách ôn luyện nội dung chạy ngắn, chạy bên cho học sinh nữ chuẩn bị cho hội khỏe phù đổng cấp huyện, bản thân tôi đã lựa chọn được bốn học sinh tham gia bồi dưỡng. Trước khi vào quá trình bồi dưỡng tôi đã tiến hành kiêm tra thể lực các em với nội dung chạy ngắn 60m và chạy tùy sức 5 phút và thu được kết quả như sau. Bảng 3: Thành tích chạy ngắn 60m (giây) theo tiêu chuẩn rèn luyện thân thể và chạy tùy sức 5 phút (m) theo tiêu chuẩn về đánh giá, xếp loại thể lực học sinh, sinh viên của 4 học sinh nữ được lựa chọn bồi dưỡng. STT Họ và tên học sinh Kết quả thu được Kết quả thu được chạy chạy 60m (giây) tùy sức 5 phút (m) 1 H Yăn Niê 10,45 804 2 H Ria A đrơng 10,25 797 3 H Nap Hđơk 10,30 792 4 Nguyễn Thị Trà My 10,34 800 Ở bảng 3 kết quả đối chiếu với bảng tiêu chuẩn rèn luyện thân thể và tiêu chuẩn đánh giá, xếp loại thể lực học sinh, sinh viên cho thấy các em tuy 10 Lớp Số học Kết quả thu được với lớp thực nghiệm 8A1 và lơp đối sinh được chứng 8A2 khảo sát Tốt Tỉ lệ % Đạt Tỉ lệ % Chưa đạt Tỉ lệ % 8A1 31 11 35,5 18 58 2 6,5 8A2 31 7 22.6 19 61,3 5 16,1 Ở phần kết quả bảng 1A cho thấy trước thực nghiệm thành tích chạy 30m theo tiêu chuẩn về đánh giá, xếp loại thể lực học sinh, sinh viên của 2 lớp 8A1 và 8A2 gần như tương đương nhau, nhưng sau khi áp dụng đề tài với lớp 8A1 thành tích thu được như bảng 1B đã cho thấy lớp được áp dụng đề tài thành tích có sự chuyển biến tích cực hơn, tỉ lệ xếp loại tốt tăng lên nhiều hơn, tỉ lệ chưa đạt giảm xuống đáng kể so với 8A2. Điều đó có nghĩa các bài tập trên đã có hiệu quả đối với sự phát triển sức nhanh của học sinh. Bảng 2B: Thành tích chạy tùy sức 5 phút, giữa lớp thực nghiệm 8A1, và lớp đối chứng 8A2 theo quy định về việc đánh giá, xếp loại thể lực học sinh, sinh viên. Lớp Số học Kết quả thu được với lớp thực nghiệm 8A1 và lơp đối sinh được chứng 8A2 khảo sát Tốt Tỉ lệ % Đạt Tỉ lệ % Chưa đạt Tỉ lệ % 8A1 31 3 9,7 23 74,2 5 16,1 8A2 31 1 3,2 21 67,8 9 29 Qua bảng 2A cho thấy thành tích chạy tùy sức 5 phút của hai lớp xếp loại tốt chiếm tỉ lệ thấp và tỉ lệ học sinh xếp loại chưa đạt còn chiếm tỉ lệ cao, điều đó chứng tỏ thể lực của nhiều học sinh chưa đáp ứng được sự vận động liên tục với lượng vận động trung bình trong 5 phút. Nhưng sau thực nghiệm với lớp 8A1đối chứng với 8A2 thì tỉ lệ xếp loại tốt của 8A1 đã tăng lên hơn so với 8A2, tỉ lệ học sinh xếp loại chưa đạt của hai lớp đều giảm xuống nhưng 8A1 tỉ lệ giảm xuống cao hơn. Cũng trong năm học 2017 – 2018, tại hội khỏe phù đổng cấp huyện dành cho học sinh THCS do phòng giáo dục tổ chức, 4 học sinh nữ được tôi lựa chọn bồi dưỡng đã tham gia dự thi nội dung chạy ngắn và chạy bền cũng đã bước đầu có kết quả, mặc dù giải chưa cao nhưng là dấu hiệu khả quan mà sáng kiến mang lại. Cụ thể: + 1 giải nhì chạy 800m của em H Yăn Niê. + 1 giải 3 chạy 100m của em H Ria A đrơng. + 1 giải 3 chạy 200m của em H Ria A đrơng. 12
File đính kèm:
skkn_mot_so_bai_tap_phoi_hop_nang_cao_thanh_tich_hai_noi_dun.doc

