SKKN Kỹ năng nhận diện vi phạm của cấp sơ thẩm thông qua công tác thực hành quyền công tố-kiểm sát xét xử phúc thẩm án Hình sự

doc 21 trang skquanly 10/10/2025 1030
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Kỹ năng nhận diện vi phạm của cấp sơ thẩm thông qua công tác thực hành quyền công tố-kiểm sát xét xử phúc thẩm án Hình sự", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Kỹ năng nhận diện vi phạm của cấp sơ thẩm thông qua công tác thực hành quyền công tố-kiểm sát xét xử phúc thẩm án Hình sự

SKKN Kỹ năng nhận diện vi phạm của cấp sơ thẩm thông qua công tác thực hành quyền công tố-kiểm sát xét xử phúc thẩm án Hình sự
 VIỆN KSND TỐI CAO CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
VIỆN KSND TỈNH BÌNH ĐỊNH Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
 Số: 961/CĐ-VKS-P7 Bình Định, ngày 30 tháng 7 năm 2021
 CHUYÊN ĐỀ
 Kỹ năng nhận diện vi phạm của cấp sơ thẩm thông qua công tác
 thực hành quyền công tố - kiểm sát xét xử phúc thẩm án Hình sự
 I. Mục đích, sự cần thiết của việc phát hiện vi phạm 
 1. Mục đích 
 Trong công tác thực hành quyền công tố - kiểm sát xét xử án Hình sự theo 
thủ tục phúc thẩm, thông qua việc kiểm sát bản án hình sự sơ thẩm và nghiên 
cứu hồ sơ vụ án, Viện kiểm sát phát hiện thiếu sót, vi phạm của cấp sơ thẩm 
trong quá trình giải quyết vụ án để thực hiện quyền kháng nghị hoặc kiến nghị 
theo thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân được quy định tại Luật tổ chức 
Viện KSND năm 2014 (Điều 5); Bộ luật Tố tụng hình sự (điểm o, p khoản 2 
Điều 41; điểm m khoản 1 Điều 42) và Chỉ thị số 08/CT-VKSTC ngày 06/4/2016 
về “Tiếp tục tăng cường công tác kháng nghị án hình sự” (viết tắt là Chỉ thị số 
08) của Viện trưởng Viện KSND tối cao, không để xảy ra tình trạng vụ án hình 
sự có vi phạm nghiêm trọng nhưng không phát hiện được, không kịp thời kháng 
nghị, kiến nghị để xảy ra hậu quả nghiêm trọng hoặc vi phạm tiếp tục tái diễn, 
góp phần thực hiện hiệu quả chức năng, nhiệm vụ thực hành quyền công tố, 
kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân.
 Thông qua công tác kiểm sát bản án và THQCT - KSXX phúc thẩm án 
Hình sự, Viện kiểm sát nhân dân trên cấp trực tiếp phát hiện các thiếu sót, vi 
phạm của cấp sơ thẩm, tập hợp thành các dạng vi phạm để thông báo rút kinh 
nghiệm chung nhằm nâng cao chất lượng công tác THQCT - KSXX vụ án Hình 
sự của Viện KSND cấp huyện cũng như nâng cao trách nhiệm của Kiểm sát viên 
khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đúng theo quy định tại Quy chế công tác thực 
hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự ban hành kèm theo quyết 
định số 505/QĐ-VKSTC ngày 18/12/2017 của Viện trưởng Viện KSND tối cao 
(khoản 4 Điều 11).
 Kháng nghị, kiến nghị và thông báo rút kinh nghiệm của Viện kiểm sát là 
những chỉ tiêu nghiệp vụ được quy định trong Hệ thống chỉ tiêu cơ bản đánh giá 
kết quả công tác nghiệp vụ trong ngành KSND (ban hành kèm theo Quyết định 
số 139/QĐ-VKSTC ngày 29/4/2020 của Viện trưởng VKSND tối cao) vì vậy để 
nâng chất các chỉ tiêu này thì Viện kiểm sát trên cấp trực tiếp cần phải phát hiện 
được vi phạm của cấp sơ thẩm vì đây là “nguồn” chính để thực hiện tốt các chỉ 
tiêu trên. 3
phần giúp cho đội ngũ Kiểm sát viên sơ cấp, nhất là các đồng chí Kiểm sát viên 
trẻ, Kiểm sát viên mới bổ nhiệm chưa có kinh nghiệm có “cẩm nang” khi 
nghiên cứu bản án hoặc hồ sơ vụ án, rút ngắn được thời gian nghiên cứu nhưng 
lại nhanh chóng, chính xác nhận diện được vi phạm.
 II. Kết quả phát hiện vi phạm và những biện pháp tác động
 1. Kết quả đạt được và những dạng thiếu sót, vi phạm
 1.1. Về số liệu (từ 01/12/2017 đến 31/5/2021) 
 Công tác kiểm sát bản án: từ 01/12/2017 đến 31/5/2021, Phòng 7 đã nhận 
1620 bản án hình sự sơ thẩm của TAND cấp huyện (năm 2018: 448 bản án, năm 
2019: 502 bản án, năm 2020: 416 bản án, 6 tháng đầu năm 2021: 254 bản án). 
Phòng đã kiểm sát 100% bản án sơ thẩm do cấp huyện sao gửi. 
 Công tác THQCT-KSXX phúc thẩm: trong kỳ, Tòa án cấp phúc thẩm đã 
thụ lý: 681 vụ/1159 bị cáo, đã giải quyết 661 vụ/1135 bị cáo (năm 2018: 170 
vụ/285 bị cáo, năm 2019: 219 vụ/418 bị cáo, năm 2020: 188 vụ/301 bị cáo, 6 
tháng đầu năm 2021: 84 vụ/131 bị cáo). 
 1.2. Những dạng thiếu sót, vi phạm.
 1.2.1.Vi phạm thời hạn gửi bản án (khoản 1 Điều 262 BLTTHS).
 Đây là dạng vi phạm mang tính phổ biến, xảy ra thường xuyên ở hầu hết 
các đơn vị cấp huyện và chậm khắc phục. Mặc dù tại khoản 1 Điều 262 Bộ luật 
tố tụng Hình sự đã quy định trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày tuyên án, Tòa án 
cấp sơ thẩm phải giao bản án cho Viện kiểm sát cùng cấp, Viện kiểm sát cấp 
trên trực tiếp nhưng trong hơn 03 năm, Tòa án nhân dân cấp huyện đã gửi 370 
bản án không đúng thời hạn cho Viện KSND cùng cấp (trong đó, năm 2018: 106 
bản án, năm 2019: 128 bản án, năm 2020: 82 bản án, 06 tháng đầu năm 2021: 54 
bản án – chiếm tỉ lệ 22,83% trên tổng số 1620 bản án Phòng 7 đã nhận). Đơn vị 
có số lượng bản án giao quá hạn nhiều nhất phải kể đến là TAND TX. An Nhơn 
(109 bản án) và có rất nhiều bản án gửi chậm từ 20 đến 40 ngày. 
 Phần lớn các TAND cấp huyện cũng chưa thực hiện việc gửi bản án cho 
Viện KSND cấp trên trực tiếp theo quy định. Trong kỳ, Phòng 7 chỉ nhận được 
48 bản án do 04 Tòa án cấp huyện gửi (Tuy Phước 44, Quy Nhơn 02, Phù Cát 
01, Vĩnh Thạnh 01), còn lại 07 Tòa án huyện, thị xã chưa thực hiện.
 1.2.2. Hình thức bản án HSST chưa đúng theo Mẫu số 27-HS ban hành 
kèm theo Nghị quyết số 05/2017/NQ-HĐTP ngày 19/9/2017 của Hội đồng thẩm 
phán TAND tối cao; Bản án HSST có nhiều sai sót về lỗi chính tả.
 - Lý lịch bị cáo không đầy đủ thông tin, không chính xác:
 Bản án hình sự sơ thẩm số 13 ngày 15/01/2021 của Tòa án nhân dân 
huyện Tây Sơn (vụ án Trần Thanh Tuấn cùng 04 đồng phạm phạm tội “Đánh 
bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 BLHS). Phần lý lịch của cả 05 bị cáo 
trong Bản án sơ thẩm đều không thể hiện nội dung “vợ, con” của các bị cáo 5
người điều khiển xe ô tô tải mang biển kiểm soát 77C- 014.75 trong vụ án tai 
nạn giao thông nói trên như thế nào? chưa xác định rõ điểm va chạm giữa hai xe 
khi xảy ra tai nạn nằm ở phần đường nào? Hai vụ án nêu trên đều bị TAND cấp 
phúc thẩm xét xử hủy án để điều tra lại.
 1.2.4.Vi phạm nghiêm trọng trong việc định giá tài sản (thành phần Hội 
đồng định giá; trình tự, thủ tục định giá).
 Bản án HSST số 04 ngày 23/01/2018 của TAND huyện Hoài Ân áp dụng 
khoản 1 Điều 143 BLHS xử phạt bị cáo Trần Thị Nam cùng 10 đồng phạm về 
tội “Hủy hoại tài sản”. 
 Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Hoài Ân đã không thực 
hiện đúng trình tự, thủ tục định giá tài sản được quy định tại Nghị định số 
26/2005/NĐ-CP ngày 02/3/2005 của Chính phủ; không thực hiện đúng những 
quy định cụ thể đã hướng dẫn tại Thông tư số 55/2006/TT-BTC ngày 22/6/2006 
của Bộ Tài chính (nay được thay bằng Nghị định số 30/2018/NĐ-CP ngày 
07/3/2018 của Chính phủ và Thông tư số 30/2020/TT-BTC ngày 17/4/2020 của 
Bộ Tài chính có hiệu lực từ ngày 01/6/2020 thay cho Thông tư số 43/2018/TT-
BTC ngày 07/5/2018 của Bộ Tài chính có hiệu lực từ ngày 25/6/2018). Cụ thể: 
03 bản kết luận định giá tài sản ngày 01/12/2015; ngày 03/3/2016 và ngày 
11/8/2017 của HĐĐG trong tố tụng hình sự huyện Hoài Ân đã căn cứ vào Quyết 
định số 40 ngày 16/12/2013 của UBND tỉnh Bình Định “về việc ban hành đơn 
giá bồi thường thiệt hại về cây cối, hoa màu khi Nhà nước thu hồi đất trên địa 
bàn tỉnh Bình Định” để tính giá keo bị thiệt hại mà không tiến hành khảo sát giá 
tại thời điểm nơi có tài sản bị xâm phạm, không xem xét lời khai của bị hại, 
người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là không đảm bảo nguyên tắc trung 
thực, khách quan, không phù hợp với giá thị trường tại thời điểm bị xâm phạm 
và vi phạm thủ tục tố tụng. 
 Tại kết luận định giá ngày 10/4/2015 đối với 02 đợt nhổ phá keo tháng 
12/2014 và 01 đợt tháng 01/2015, thành phần HĐĐG chỉ có 02 thành viên là 
không đúng theo quy định tại khoản 3 Điều 6 Nghị định 26 ngày 02/3/2005.
 Đây là những vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng của cấp sơ thẩm mà 
cấp phúc thẩm không thể bổ sung tại phiên tòa được nên Hội đồng xét xử cấp 
phúc thẩm TAND tỉnh Bình Định đã tuyên hủy Bản án HSST để điều tra, xét xử 
lại theo quy định của pháp luật. 
 1.2.5. Áp dụng căn cứ pháp luật không chính xác, thiếu hoặc đã hết hiệu 
lực.
 - Không áp dụng hoặc áp dụng không chính xác căn cứ pháp luật: Bản án 
HSST số 03 ngày 05/3/2021 cuả TAND huyện An Lão (vụ Phạm Tiên phạm tội 
“Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 175 BLHS); Bản án 
HSST số 21 ngày 02/02/2021 của TAND TP.Quy Nhơn (vụ Cao Tuấn Phong 
phạm tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 BLHS) đều xử phạt các bị cáo mức 
án dưới mức thấp nhất của khung hình phạt quy định nhưng không phải là 7
 Vi phạm tương tự có Bản án hình sự sơ thẩm số 64 ngày 12/11/2020 của 
TAND TX.An Nhơn đã xử phạt Nguyễn Hoàng Nam 09 tháng tù về tội “Vi 
phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm b 
khoản 1 Điều 260 BLHS (bị cáo khai đã uống 08 lon bia trước khi gây tai nạn 
giao thông). 
 1.2.7. Truy tố, xét xử tội danh không chính xác, quyết định hình phạt 
không đúng quy định của pháp luật do nhận thức không đúng đối với các tội 
ghép quy định trong cùng một Điều luật.
 Bản án HSST số 11 ngày 15/11/2019 của TAND huyện An Lão đã áp 
dụng khoản 1 Điều 323, điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 
1 Điều 52 BLHS xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu Cầu 06 tháng tù về tội “Chứa chấp 
và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.
 Bị cáo Nguyễn Hữu Cầu biết rõ số tiền, vàng của Trần Anh Nhật là do 
trộm cắp mà có nhưng bị cáo vẫn 02 lần thực hiện hành vi mua giúp Trần Anh 
Nhật 02 chiếc điện thoại với tổng số tiền 5.280.000 đồng và tiêu thụ tổng số tiền 
6.780.000 đồng nên hành vi của bị cáo đã phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người 
khác phạm tội mà có” quy định tại khoản 1 Điều 323 BLHS. Ngoài ra, bị cáo 
còn có hành vi cất giữ giúp Nhật 09 nhẫn vàng trị giá 55.416.000đ do Nhật trộm 
cắp nên hành vi của bị cáo đã phạm tội “Chứa chấp tài sản do người khác phạm 
tội mà có” quy định tại khoản 1 Điều 323 BLHS. Điều 323 BLHS quy định 02 
tội ghép trong cùng 01 điều luật gồm “Tội chứa chấp tài sản do người khác 
phạm tội mà có” và “Tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Cơ 
quan CSĐT Công an huyện An Lão đã khởi tố, điều tra và quyết định đề nghị 
truy tố bị can Nguyễn Hữu Cầu về 02 tội nêu trên nhưng Cáo trạng số 10/CT-
VKSAL ngày 30/9/2019 của Viện KSND huyện An Lão truy tố bị cáo về tội 
“chứa chấp và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 
323 BLHS. 
 Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đề nghị và Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo 
Nguyễn Hữu Cầu phạm tội: “chứa chấp và tiêu thụ tài sản do người khác phạm 
tội mà có” quy định tại khoản 1 Điều 323 BLHS; theo đó, tuyên phạt bị cáo 06 
tháng tù (lẽ ra, KSV phải đề nghị và HĐXX tuyên hình phạt đối với từng tội rồi 
áp dụng Điều 55 BLHS tổng hợp hình phạt). Bản án nêu trên của TAND huyện 
An Lão đã bị Viện KSND tỉnh Bình Định kháng nghị theo hướng hủy toàn bộ 
bản án để truy tố, xét xử lại đối với Nguyễn Hữu Cầu về tội “Tiêu thụ tài sản do 
người khác phạm tội mà có” quy định tại khoản 1 Điều 323 BLHS và tội “Chứa 
chấp tài sản do người khác phạm tội mà có” quy định tại khoản 1 Điều 323 
BLHS. 
 1.2.8. Quyết định mức hình phạt không tương xứng do đánh giá không 
đúng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và hậu quả 
vụ án. 
 Bản án hình sự sơ thẩm số 67/2020/HSST ngày 02/12/2020 của TAND thị 
xã An Nhơn xử phạt bị cáo Võ Trường Thọ 03 tháng tù về tội “Vi phạm quy 9
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa XXST đã tuyên phạt bị cáo Trà 02 năm tù nên 
HĐXX cấp phúc thẩm đã tuyên hủy bản án hình sự sơ thẩm số 178/2019/HSST 
ngày 20/12/2019 của Tòa án nhân dân TP. Quy Nhơn để xét xử lại theo đúng 
quy định của pháp luật do cấp sơ thẩm đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng 
dẫn đến xâm hại nghiêm trọng quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo Trà.
 1.2.10. Vi phạm Điều 65 của Bộ luật Hình sự và Nghị quyết số 
02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao 
hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo. 
 - Cho hưởng án treo trái quy định.
 Bản án số 07 ngày 15/01/2021 của TAND TP.Quy Nhơn (vụ án Nguyễn 
Cảnh Tài cùng đồng bọn phạm tội “Chứa mại dâm”). Vụ án có 07 bị cáo, trong 
đó có 06 bị cáo phạm tội với 04 tình tiết định khung tăng nặng quy định tại điểm 
a, c, d, g khoản 2 Điều 327 BLHS và cả 07 bị cáo đều có tình tiết định khung 
quy định tại điểm c khoản 2 Điều 327 BLHS (phạm tội 02 lần trở lên) nhưng tại 
phiên tòa, KSV đề nghị và HĐXX cho 01 bị cáo hưởng án treo trong khi bị cáo 
này không thuộc trường hợp được loại trừ (người phạm tội dưới 18 tuổi). 
 - Ấn định thời gian thử thách không đúng quy định. 
 Bản án HSST số 46 ngày 07/10/2019 của TAND huyện Tây Sơn áp dụng 
điểm e khoản 2 Điều 243; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 54; Điều 65 BLHS 
xử phạt bị cáo Đinh Văn Thùy 30 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian 
thử thách 45 tháng về tội “Hủy hoại rừng”.
 Điều 4 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng 
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về hướng dẫn áp dụng Điều 65 của BLHS 
về án treo quy định: “Khi cho người phạm tội hưởng án treo, Tòa án phải ấn 
định thời gian thử thách bằng hai lần mức hình phạt tù, nhưng không được dưới 
01 năm và không được quá 05 năm”. Trong trường hợp này, thời gian thử thách 
của bị cáo Đinh Văn Thùy phải là 60 tháng. 
 - Không tuyên hậu quả của việc vi phạm nghĩa vụ trong thời gian thử 
thách khi cho bị cáo hưởng án treo quy định tại khoản 5 Điều 65 BLHS.
 Bản án hình sự sơ thẩm số 32/2020/HSST ngày 10/7/2020 của Tòa án 
nhân dân thị xã Hoài Nhơn tuyên phạt bị cáo Nguyễn Chí Trãi 06 tháng tù 
nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 tháng; phạt bị cáo Đặng Hoài 
Phong 03 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách là 12 tháng cùng 
về tội “Trộm cắp tài sản” nhưng lại không tuyên nội dung “giao người được 
hưởng án treo cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, 
tổ chức nơi người đó làm việc để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách” 
và không tuyên hậu quả của việc vi phạm nghĩa vụ trong thời gian thử thách 
theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 6 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP 
ngày 15/5/2018 của HĐTP Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 
BLHS về án treo. 
 1.2.11. Quyết định xử lý vật chứng không đúng quy định của pháp luật. 

File đính kèm:

  • docskkn_ky_nang_nhan_dien_vi_pham_cua_cap_so_tham_thong_qua_con.doc