SKKN Giải pháp giúp học sinh sử dụng điện thoại thông minh có hiệu quả qua công tác chủ nhiệm tại trường THPT Nguyễn Cảnh Chân
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Giải pháp giúp học sinh sử dụng điện thoại thông minh có hiệu quả qua công tác chủ nhiệm tại trường THPT Nguyễn Cảnh Chân", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Giải pháp giúp học sinh sử dụng điện thoại thông minh có hiệu quả qua công tác chủ nhiệm tại trường THPT Nguyễn Cảnh Chân

BÌA 1 MỤC LỤC 2 DANH MỤC VIẾT TẮT 4 PHẦN MỞ ĐẦU 4 1. Lý do chọn đề tài 5 2. Mục đích nghiên cứu 6 3. Đối tượng nghiên cứu 6 4. Phạm vi nghiên cứu 6 5. Nhiệm vụ nghiên cứu 6 6. Phương pháp nghiên cứu 7 7. Giả thuyết khoa học 7 8. Dự báo đóng góp của đề tài 7 CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN. 8 1. Cơ sở lý luận công tác giáo dục học sinh chưa ngoan 8 1.1. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài 8 1.1.1. Học sinh chưa ngoan 8 1.1.2. Giáo dục học sinh chưa ngoan 8 1.1.3. Biện pháp giáo dục và biện pháp giáo dục học sinh chưa 8 ngoan 1.2. Công tác GD HSCN và nhiệm vụ nâng cao chất lượng GD 9 toàn diện 1.3. Nội dung công tác nâng cao hiệu quả GD HSCN 9 1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động GD HSCN 11 1.4.1. Đặc điểm tâm lý lứa tuổi HS THPT 11 1.4.2. Pháp luật nhà nước 11 1.4.3. Giáo dục trong nhà trường 12 1.4.4. Giáo dục trong gia đình 12 1.4.5. Giáo dục xã hội 12 1 3.2.3. Giáo dục học sinh chưa ngoan qua hoạt động của các Câu 31 lạc bộ 4. Khảo nghiệm tính cấp thiết và tính khả thi của các biện ph 31 5. Kết quả thực nghiệm 33 5.1. Đối với học sinh . 40 5.2. Đối với bản thân và đồng nghiệp. 45 5.3. Đối với nhà trường. 47 PHẦN III – KẾT LUẬN 1. Kết luận 2.Ý nghĩa của đề tài. 3. Một số đề xuất và kiến nghị 3 PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ. 1.Lý do chọn đề tài. Với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước theo xu thế hội nhập quốc tế đòi hỏi nguồn nhân lực của đất nước phải đáp ứng cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước trong giai đoạn mới. Vì vậy giáo dục giữ vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng và phát triển nhân cách con người xã hội chủ nghĩa. Trong Nghị quyết số 29-NQ/TW, Hội nghị Trung ương 8 khoá XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã nêu rõ“Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa- hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. Với mục tiêu “. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả”. Độ tuổi THPT là giai đoạn tâm sinh lí của các em học sinh có nhiều thay đổi. Song hành với sự phát triển của nền kinh tế thị trường bên cạnh mặt tích cực không tránh khỏi các mặt tiêu cực ví như các tệ nạn xã hội .., trong khi đó các kiến thức hiểu biết về xã hội, về pháp luật chưa đầy đủ, điều này dẫn đến một bộ phận học sinh có biểu hiện sa sút về đạo đức, lối sống lệch lạc, chưa có ý thức trách nhiệm cao về hành vi của mình dễ dẫn đến những sai phạm nội quy nhà trường, pháp luật của Nhà nước. Vì vậy để góp phần thực hiện tốt mục tiêu giáo dục thì việc tìm ra những nguyên nhân, thực trạng, biện pháp để giáo dục học sinh chưa ngoan (GD HSCN) là một trong những mục tiêu quan trọng trong công tác giáo dục ở trường THPT hiện nay. Trong đó, việc giáo dục HSCN ngày càng tiến bộ có ý nghĩa góp phần khắc phục những tồn tại ở học đường để môi trường giáo dục luôn phát triển lành mạnh, tạo điều kiện cho HS có môi trường học tập và rèn luyện tốt nhất. Xuất phát từ những lý do trên, với cương vị là một giáo viên giảng dạy bộ môn GDCD ở trường THPT Đô Lương 2, trực tiếp làm công tác chủ nhiệm lớp nhiều năm qua bản thân tôi rất trăn trở cần phải làm, và làm như thế nào để có hiệu quả cao nhất trong giáo dục học sinh chưa ngoan. Trên hiệu quả công việc thực tế của bản thân đã đạt được, tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Biện pháp giáo dục học sinh chưa ngoan ở trường THPT” làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm với mong muốn góp một phần nhỏ vào việc rèn luyện kĩ năng và giáo dục đạo đức cho học sinh ở trường THPT hiện nay. 2. Mục đích nghiên cứu Mục đích của tôi là nghiên cứu về HSCN để tìm hiểu vì sao? nguyên nhân nào và những biểu hiện, thái độ của HS như thế nào ? cho biết đó là đối tượng chưa ngoan và nó chưa ngoan ở những mặt nào? từ đó đưa ra phương pháp giáo dục hợp lý, áp dụng tốt vào việc dạy học và GDHSCN đạt kết quả tốt hơn nữa, 1 động nâng cao hiệu quả ở trường THPT Đô Lương 2 được thực hiện bằng các biện pháp khoa học và phù hợp với thực tiễn thì có tác dụng góp phần nâng cao chất lượng GDHSCN nói riêng và giáo dục toàn diện cho học sinh trong nhà trường nói chung. 8. Đóng góp của đề tài 8.1. Về mặt lí luận - Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về nâng cao hiệu quả GDHSCN ở trường THPT, xây dựng khái niệm về GDHSCN 8.2. Về mặt thực tiễn - Bước đầu đánh giá thực trạng và nguyên nhân thực trạng, hiệu quả GDHSCN ở trường THPT nơi tôi công tác. 3 giúp các em có nhận thức, thái độ, hành vi đúng đắn với gia đình, bạn bè và những người xung quanh, giúp các em hoàn thiện các kĩ năng sống như: Kĩ năng giao tiếp, ứng xử, kĩ năng hợp tác, kĩ năng giải quyết các bất đồng, kĩ năng ra quyết địnhGiúp các em biết nhận lỗi khi sai và biết tha thứ khi người khác có lỗi mà nhận ra lỗi. Biết sống tử tế, sẵn sàng giúp đỡ những người kém may mắn hơn mình. Có ý thức chấp hành pháp luật, bảo vệ Tổ Quốc xã hội chủ nghĩa, bảo vệ môi trường 1.1.3. Biện pháp giáo dục và biện pháp giáo dục học sinh chưa ngoan - Biện pháp GD: là định hướng cách thức giải quyết các vấn đề thuộc phạm vi GD, nhằm thực hiện mục tiêu phát triển chung của đất nước, nó mang tính cấp thiết và khả thi khi thực nghiệm biện pháp. Biện pháp được đặt trong phạm vi nghiên cứu khoa học từ các tình huống có vấn đề, các biện pháp GD phải nằm trong định hướng chung của sự phát triển GD thông qua các dự báo khoa học. - Biện pháp GD HSCN: là hệ thống những phương pháp, cách thức tác động nhằm làm cho hoạt động GD HSCN có chất lượng và hiệu quả cao. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy “Không có gì sung sướng, vẻ vang hơn là trau dồi đạo đức cách mạng để góp phần xây dựng CNXH”. Người còn chỉ rõ “Đạo đức cách mạng không phải từ trên trời sa xuống, mà do đấu tranh rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển cũng cố” Trong Luật Giáo dục năm 2005, được sửa đổi, bổ sung năm 2009 nêu rõ mục tiêu của GD phổ thông là “Giúp HS phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và kĩ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng tự động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam XHCN, xây dựng tính cách và trách nhiệm công dân” Công tác GD HSCN trong nhà trường hiện nay có ý nghĩa hết sức quan trọng, bởi “cơ chế thị trường định hướng XHCN trong điều kiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta đã làm thay đổi nhiều chuẩn mực đạo đức điều chỉnh các hành vi cá nhân” Nền kinh tế thị trường đã và đang ảnh hưởng sâu sắc tới mọi mặt của đời sống xã hội nước ta, tới hệ giá trị và vấn đề đạo đức truyền thống, ảnh hưởng này có thể thấy rất rõ trong HS phổ thông hiện nay, đem lại không ít những xáo trộn, những thay đổi trong lối sống, những vấn đề lệch chuẩn trong một bộ phận học sinh. Vì vậy, cần phải tăng cường GD HSCN để tạo ra những con người vừa hồng vừa chuyên, đáp ứng ngày càng cao của sự phát triển xã hội. Nhiệm vụ của người giáo viên là cần trau dồi cho HS một vốn hiểu biết về khoa học, kỹ thuật cơ bản, thiết thực, vững chắc để có thể vận dụng trong cuộc sống tương lai. Đó là rèn luyện cho HS những kĩ năng lao động và thực hành, giáo dục cho HS về lý tưởng sống, về đạo đức cách mạng. 1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động giáo dục học sinh chưa ngoan. 5 Gia đình là tế bào của xã hội, là nơi con người sinh ra và lớn lên, là môi trường có tính chất quyết định đến sự hình thành và phát triển của con người về mọi mặt, vật chất, tinh thần và đặc biệt là đạo đức 1.2.5. Giáo dục xã hội GD xã hội là: “hoạt động của các tổ chức, các nhóm xã hội có chức năng GD theo quy định của pháp luật hoặc các chương trình GD trên các phương tiện thông tin đại chúng” GD của xã hội cũng góp phần hình thành nhân cách cho con người, nếu XH văn minh, môi trường trong sạch, đời sống vật chất, tinh thần phong phú, lành mạnh, các quan hệ xã hội tốt đẹp sẽ là điều kiện lý tưởng để HS tiếp nhận được những chuẩn mực, giá trị xã hội, biến nó thành nhu cầu bên trong nhằm hình thành ý thức, lý tưởng, niềm tin và hành vi đạo đức. GD HSCN là quá trình lâu dài, phức tạp đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa ba môi trường GD: gia đình, nhà trường và xã hội. Trong mối quan hệ đó, nhà trường giữ vai trò chủ đạo. 1.2.6. Các yếu tố tự giác ở học sinh Quá trình tự giác GD của HS bao gồm những yếu tố cơ bản: - Năng lực tự ý thức của HS về phát triển nhân cách, về một phẩm chất nào đó hoặc cần sửa chữa, thay đổi cho phù hợp, đáp ứng yêu cầu mới cao hơn; - Năng lực tự tổ chức GD bao gồm tự cam kết phấn đấu, rèn luyện của bản thân, lựa chọn phương pháp, phương tiện, hình thức để thực hiện cam kết do bản thân đề ra; - Năng lực tự nổ lực của bản thân để vượt qua khó khăn nhằm thực hiện cam kết, hình thành được các phẩm chất ý chí; - Năng lực tự kiểm tra để xem kết quả tự giác GD, tự đánh giá và rút ra những bài học kinh nghiệm cho bản thân. 1.2.7. Hoạt động của Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh - Hoạt động của tổ chức Đoàn trong nhà trường là một bộ phận hữu cơ của quá trình GD. Nội dung công tác GD của ĐTN trong nhà trường bao gồm: GD HS về tư tưởng chính trị và đạo đức, nâng cao chất lượng học tập; GD lao động hướng nghiệp và dạy nghề. Đặc biệt ĐTN phải giữ vai trò chủ đạo trong việc xây dựng và nâng cao chất lượng tự quản của HS trong tập thể lớp, trong trường và các hoạt động xã hội. ĐTN là lực lượng lãnh đạo chính trị trong các tập thể HS trong nhà trường, là lực lượng nòng cốt, tiên phong gương mẫu trong học tập và các hoạt động tập thể. Do đó, khi xây dựng và GD tập thể HS, nhất thiết phải quan tâm đến việc xây dựng và GD tổ chức ĐTN trong tập thể HS đó. Chính phương pháp GD của ĐTN trong nhà trường đã có nhiều tác động tích cực, bổ ích cho việc nâng cao hiệu quả GD HSCN. 7 Mặt khác, một số thanh niên lêu lỏng ở bên ngoài thường xuyên vào lôi kéo học sinh trong trường bỏ giờ, bỏ tiết, tham gia vào các tệ nạn xã hộiđã ảnh hưởng không ít đến đạo đức học sinh. Sự phối hợp giáo dục giữa gia đình, nhà trường, xã hội chưa thật sự chặt chẽ. 2.2. Thực trạng về hạnh kiểm học sinh trường THPT Đô Lương 2 Theo nguồn Báo cáo hàng năm của trường THPT Đô Lương 2 , thực trạng hạnh kiểm học sinh từ năm 2017 - 2018 đến năm học 2020- 2021 như sau: Tỉ lệ hạnh kiểm (%) Tổng số Trung Năm học HS Tốt Khá Yếu bình 2017 - 2018 1270 72,83 21,42 4,88 0,87 2018 - 2019 1174 72,83 21,81 5,11 0,26 2019 - 2020 1142 71,89 22,85 4,90 0,35 2020- 2021 1213 74,3 20,3 4,22 0,27 Tổng cộng 4877 73 21 4,7 0,3 Bảng 1. Thống kê tỉ lệ xếp loại hạnh kiểm HS trường THPT Đô Lương 2 từ năm học 2017 - 2018 đến năm học 2020 – 2021 Từ bảng số liệu trên cho thấy, trong 4 năm học gần đây, ở trường tôi công tác, bình quân hàng năm tỉ lệ HS xếp loại hạnh kiểm Tốt – Khá chiếm tỉ lệ cao (94%), nhưng bên cạnh đó vẫn còn tồn tại của một bộ phận nhỏ HSCN (hạnh kiểm yếu chiểm bình quân 0,3%). Điều đó đặt ra vấn đề nâng cao hiệu quả HSCN để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục nhà trường. 2.3. Thực trạng về học sinh chưa ngoan ở trường THPT Đô Lương 2 - Biểu hiện cuả học sinh chưa ngoan :HSCN có rất nhiều biêủ hiện trong học tập, tu dưỡngcác em thường thể hiện rõ trong các môi trường giáo dục như sau: Ở trường: Ban đầu là biểu hiện lười học dẫn đến hổng kiến thức, rồi sợ học và trốn học (có thể trốn một số tiết ở một vài môn học nào đó thành hệ thống). Nặng hơn nữa là kết giao chơi bời với bạn bè xấu, vô lễ với thầy cô, hay gây gổ với bạn bè (Có em còn thể hiện mình là “đại ca” cuả lớp,hoặc đứng đầu một nhóm bạn và cùng bắt nạt các bạn khác theo kiểu băng nhóm xã hội đen). Những HS này thường xuyên vi phạm kỷ luật, đa số xếp loại hạnh kiểm trung bình hoặc yếu. Ít nhất có vài lần được gọi lên làm kiểm điểm nhưng chưa sửa chữa hoặc chuyển biến rất chậm. 9
File đính kèm:
skkn_giai_phap_giup_hoc_sinh_su_dung_dien_thoai_thong_minh_c.docx