SKKN Đổi mới công tác quản lý, chỉ đạo thực hiện chương trình giáo dục Tiểu học theo hướng tăng cường tính tự chủ của cơ sở giáo dục

doc 12 trang skquanly 31/08/2025 480
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Đổi mới công tác quản lý, chỉ đạo thực hiện chương trình giáo dục Tiểu học theo hướng tăng cường tính tự chủ của cơ sở giáo dục", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Đổi mới công tác quản lý, chỉ đạo thực hiện chương trình giáo dục Tiểu học theo hướng tăng cường tính tự chủ của cơ sở giáo dục

SKKN Đổi mới công tác quản lý, chỉ đạo thực hiện chương trình giáo dục Tiểu học theo hướng tăng cường tính tự chủ của cơ sở giáo dục
 ĐỔI MỚI CÔNG TÁC QUẢN LÝ, CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN CHƯƠNG 
TRÌNH GIÁO DỤC TIỂU HỌC THEO HƯỚNG TĂNG CƯỜNG TÍNH TỰ 
 CHỦ CỦA CƠ SỞ GIÁO DỤC
 A. ĐẶT VẤN ĐỀ.
 Đổi mới giáo dục phổ thông là một vấn đề đang được Đảng, nhà nước, ngành 
giáo dục và cả xã hội hết sức quan tâm. Công tác này đã được triển khai mạnh mẽ 
từ năm 2002 khởi đầu bằng việc đổi mới nội dung chương trình, sách giáo khoa và 
phương pháp dạy học. Trong 8 năm qua, sự nghiệp giáo dục nói chung, giáo dục 
Tiểu học nói riêng, đã có những chuyển biến tích cực. Chất lượng giáo dục toàn 
diện đã được nâng cao rõ rệt. Các điều kiện như cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy 
học, công tác quản lý giáo dục cũng đã được quan tâm đổi mới.
 Đổi mới giáo dục phổ thông chỉ có thể thành công khi chương trình giáo dục 
cùng với các điều kiện thực hiện được đổi mới một cách đồng bộ. Nghĩa là bên 
cạnh việc đổi mới chương trình và sách giáo khoa thì các điều kiện để tổ chức triển 
khai như cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên, kinh phí cho giáo dục và công tác quản 
lý nhà trường cần được quan tâm đổi mới một cách mạnh mẽ hơn nữa. Từ năm 
2002 đến nay, đổi mới giáo dục phổ thông nhìn chung chỉ mới tập trung chủ yếu 
vào việc thay sách giáo khoa, đổi mới cách dạy của giáo viên và cách học của học 
sinh. Để chương trình, sách giáo khoa mới được triển khai một cách có chất lượng, 
nhà nước đã đầu tư về cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học cho các nhà trường. 
Công tác quản lý trường học cũng đã có những đổi mới cho phù hợp với yêu cầu 
của việc thực hiện chương trình và sách giáo khoa mới.
 Công tác quản lý có vai trò hết sức quan trọng trong việc tổ chức, quản lý các 
hoạt động và chất lượng giáo dục của nhà trường. Người quản lý đồng thời là 
người lãnh đạo có vai trò định hướng, “dẫn đường” các hoạt động đó. Chất lượng, 
hiệu quả giáo dục của một nhà trường phụ thuộc rất nhiều vào công tác quản lý. 
Muốn đổi mới thành công thì công tác quản lý phải đi trước một bước. Xác định 
được vai trò của công tác quản lý nói chung, công tác quản lý của Hiệu trưởng nói 
riêng, trong những năm qua bản thân tôi đã tập trung nghiên cứu đổi mới công tác 
quản lý tại Trường Tiểu học Diễn Kỷ. Từ năm học 2009-2010, với chủ đề “năm 
học đổi mới quản lý, nâng cao chất lượng giáo dục” thì việc đổi mới công tác quản 
lý càng được quan tâm nhiều hơn. Đổi mới công tác quản lý bao gồm rất nhiều nội 
dung, trong phạm vi sáng kiến kinh nghiệm này, tôi tập trung trình bày một số vấn 
đề về đổi mới trong việc xây dựng kế hoạch và chỉ đạo thực hiện chương trình 
giáo dục trong nhà trường.
 B. NỘI DUNG.
 I. THỰC TRẠNG.
 1. Từ năm 2002, khi chương trình mới được triển khai, các cấp quản lý giáo 
dục đã tổ chức cho cán bộ quản lý, giáo viên học tập các chuyên đề thay sách. 
Cũng từ đó, phong trào đổi mới phương pháp dạy học được các nhà trường và giáo 
viên đặc biệt quan tâm. Phải khẳng định rằng việc thực hiện chương trình giáo dục 
phổ thông mới trong 8 năm qua đã làm thay đổi căn bản phương pháp dạy học của 
giáo viên. Tình trạng giáo viên lên lớp “thuyết trình”, đọc - chép đã cơ bản được 
 1 - Đảm bảo số tiết dạy học tối thiểu của từng môn học, từng khối lớp theo quy định 
của Bộ;
- Tăng số tiết học của từng môn đáp ứng nhu cầu học của học sinh đồng thời đảm 
bảo giáo dục toàn diện.
- Đảm bảo số tiết dạy tiêu chuẩn theo quy định về định mức lao động của giáo viên 
và số giờ dạy tăng thêm theo năng lực, điều kiện thực tế của giáo viên;
- Đảm bảo tính khoa học trong việc sắp xếp các môn trong từng buổi học, tránh 
nặng nề cho cả giáo viên và học sinh. Thời lượng dạy học không quá 7 tiết/ ngày.
- Đảm bảo thời gian cho các hoạt động vui chơi, hoạt động ngoài giờ của học sinh.
 Trên cơ sở xác định các căn cứ và nguyên tắc cơ bản, đồng thời căn cứ các 
thông tin về đội ngũ giáo viên (phẩm chất, năng lực, trình độ, sức khoẻ và các điều 
kiện thực hiện) Hiệu trưởng chỉ đạo việc xây dựng thời khoá biểu.
 Thời lượng dạy học các môn được bố trí như sau:
 Số tiết học bố trí cho từng khối lớp
 Lớp 1 Lớp 2 Lớp 3 Lớp 4 Lớp 5
 Môn học Số Số Số Số Số Số Số Số Số Số 
 tiết tiết tiết tiết tiết tiết tiết tiết tiết tiết 
 quy tăng quy tăng quy tăng quy tăng quy tăng 
 định thêm định thêm định thêm định thêm định thêm
Tiếng Việt 10 3 9 3 8 3 8 2 8 2
Toán 4 2 5 2 5 2 5 2 5 2
Đạo đức 1 1 1 1 1 1 1 1
TNXH 1 1 1 1 2 1
Khoa học 2 2
 1 1
Lịch sử -Địa lý 2 2
Âm nhạc 1 1 1 1 1 1 1 1
Mỹ thuật 1 1 1 1 1 1 1 1
Thủ công, KT 1 1
Thể dục 1 1 2 1 2 2 2 2
Ngoại ngữ 2 2 2 2 2
Tin học 2 2
HĐ tập thể 2 2 2 2 2 1 2 1 2 1
 Thời lượng dạy học ở trên chỉ mang tính tương đối. Với các lớp có nhiều học 
sinh yếu (nhất là lớp 1,2) mỗi tuần có thể tăng thêm 1 tiết Tiếng Việt đồng thời 
giảm 1 tiết hoạt động tập thể nhằm có thêm thời gian cho việc dạy các kỹ năng 
đọc, viết cho học sinh.
 Phương án bố trí là: Giáo viên chủ nhiệm giảng dạy các môn: Toán, Tiếng 
Việt, Đạo đức (bao gồm cả các tiết chính khóa và các tiết tăng thêm), giáo viên 2 
dạy các môn còn lại. Các môn năng khiếu và Tự chọn do giáo viên chuyên dạy. 
Giáo viên dạy môn nào thì chịu trách nhiệm kiểm tra, đánh giá học sinh ở môn đó. 
Cách bố trí này tạo điều kiện cho giáo viên nắm bắt được đối tượng và có được sự 
lựa chọn tốt nhất về nội dung, phương pháp dạy học và đảm bảo cho giáo viên 
đánh giá đúng chất lượng học sinh.
 1.2.Giao quyền tự chủ cho giáo viên trong quá trình giảng dạy.
 - Tự chủ trong việc xác định nội dung dạy học.
 3 đòi hỏi giáo viên phải nắm vững chương trình khối lớp mình giảng dạy cũng như 
chương trình toàn cấp học, hiểu rõ đối tượng dạy học cả về năng lực, vốn sống, 
vốn ngôn ngữ và cả nhu cầu học của các em. Đồng thời, giáo viên phải có khả 
năng kết hợp các phương pháp dạy học, khả năng thiết kế và tổ chức các hoạt động 
dạy học một cách sáng tạo và hiệu quả. Thực tế cho thấy những giáo viên có năng 
lực giảng dạy luôn có nhu cầu tự chủ cao vì đây chính là cơ hội, là điều kiện để họ 
sáng tạo. Ngược lại, những giáo viên mà năng lực đáp ứng ở mức thấp hơn thường 
không thích sự thay đổi, muốn làm theo khuôn mẫu có sẵn. Nếu không có sự tác 
động tích cực và phù hợp từ người quản lý thì việc giao quyền tự chủ chỉ mang 
tính hình thức mà không đi vào thực tế. Trong trường hợp này các biện pháp hành 
chính thường không mang lại hiệu quả. Trong 3 năm qua, tôi đã chỉ đạo thực hiện 
một số biện pháp nhằm nâng cao năng lực tự chủ cho giáo viên:
 + Xử lý các thông tin quản lý về đánh giá giáo viên hàng năm theo “chuẩn 
nghề nghiệp giáo viên Tiểu học”, trên cơ sở đó xác định yêu cầu tự bồi dưỡng của 
từng giáo viên để đáp ứng các tiêu chí của chuẩn nhằm tư vấn định hướng công tác 
tự bồi dưỡng của mỗi giáo viên.
 + Tổ chức hội thảo cấp trường về nâng cao năng lực tự chủ trong việc thực 
hiện chương trình giáo dục, xem nội dung này là một chuyên đề cần được tập 
trung giải quyết và chỉ đạo thực hiện. Giao cho giáo viên giỏi, giáo viên có năng 
lực chịu trách nhiệm trong việc đề xuất những cách làm hay để giáo viên cùng 
thảo luận và đi đến kết luận về biện pháp thực hiện.
 + Tổ chức các tiết dạy thao giảng, thực tập ở nhiều lớp khác nhau. Việc làm 
này giúp giáo viên có thể học tập lẫn nhau, tạo điều kiện để từng người rút ra 
những kinh nghiệm cho riêng mình và vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo cho 
đối tượng học sinh của lớp mình.
 + Đưa nội dung này vào trong sinh hoạt tổ chuyên môn hàng tháng. Thông qua 
sinh hoạt tổ chuyên môn, những vấn đề khó sẽ được bàn bạc để giáo viên lựa chọn 
cách làm phù hợp với sở trường của cá nhân mình, đồng thời phát huy vai trò của 
giáo viên giỏi trong việc giúp đỡ đồng nghiệp thiết kế được các tiết dạy đạt hiệu 
quả cao.
 - Kiểm soát quyền tự chủ của giáo viên.
 Kiểm soát của người quản lý phải đảm bảo yêu cầu là không hạn chế, không 
làm mất đi khả năng sáng tạo của giáo viên mà ngược lại phải phát hiện và tạo 
điều kiện cho giáo viên sáng tạo. Bên cạnh đó cần phát hiện và uốn nắn những 
lệch lạc khi giáo viên được giao quyền tự chủ tùy tiện trong việc cắt xén nội dung, 
thời lượng dạy học hoặc xu hướng quay trở về với cách làm cũ, với phương pháp 
cũ, ngại đổi mới.
 Công tác quản lý kiểm soát hoạt động dạy học của giáo viên không phải bằng 
các biện pháp can thiệp có tính hành chính mà thông qua việc đánh giá chất lượng 
học sinh. Ở tầm vĩ mô, Bộ đã ban hành “chuẩn kiến thức và kỹ năng”. Với tư cách 
là một cơ sở giáo dục (ở tầm vi mô), nhà trường đánh giá chất lượng dạy học bằng 
công cụ là đề kiểm tra định kỳ. Bên cạnh đó, thông qua công tác kiểm tra hồ sơ 
giáo viên, thông qua dự giờ thăm lớp người quản lý nắm được mức độ tự chủ của 
mỗi giáo viên để có những tác động quản lý phù hợp.
 1.3. Thực hiện dạy học phân hóa đối tượng.
 5 chủ động trong việc tổ chức đào tạo cho giáo viên đạt trình độ B về CNTT. Từ 
tháng 6/2008 đến tháng 8/2008 đã hợp đồng mở lớp đào tạo Tin học cho 24 giáo 
viên. Số giáo viên còn lại theo học các lớp tiếp theo để đạt được trình độ và kỹ 
năng ứng dụng vào giảng dạy.
 - Động viên giáo viên ứng dụng CNTT vào việc thiết kế bài dạy. Từ chỗ viết 
tay các giáo án, giáo viên được sử dụng máy tính để soạn bài và thiết kế các phiếu 
học tập cho học sinh (phiếu học nhóm và phiếu bài tập cá nhân). Bên cạnh đó, nhà 
trường đề ra kế hoạch chỉ đạo để thiết kế và dạy thể nghiệm giáo án điện tử cho 
một số tiết ở một số môn học như Đạo đức, Tự nhiên-xã hội (lớp 1,2,3), Khoa học, 
Lịch sử - Địa lý và một số hoạt động tập thể. Quan điểm chỉ đạo là không lạm 
dụng giáo án điện tử mà chỉ triển khai dạy học một số tiết học, môn học nhằm khai 
thác lợi thế về hình ảnh, âm thanh sống động, tạo điều kiện cho học sinh dễ tiếp 
thu bài và hứng thú học tập. Việc trình chiếu được xem như là một giờ học “trực 
tuyến” để học sinh được tự khám phá kiến thức thông qua những hình ảnh và âm 
thanh sống động mà không lạm dụng để thay thế cho hoạt động của giáo viên, học 
sinh. Sau khi tổ chức dạy thể nghiệm, các tổ chuyên môn được chỉ đạo rút kinh 
nghiệm để tổ chức các tiết dạy tiếp theo. 
 - Quản lý việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy.
 Từ năm học 2007-2008 nhà trường đã cho phép giáo viên soạn bài bằng máy 
tính. Tuy nhiên, công nghệ hiện đại nếu không được kiểm soát chặt chẽ sẽ đem 
đến kết quả ngược lại. Trong năm đầu triển khai, những giáo viên đạt trình độ B về 
Tin học, thành thạo về kỹ năng sử dụng máy tính được khuyến khích soạn bài trên 
máy. Giáo án phải được in, sử dụng và đóng thành tập. Với các tiết dạy bằng giáo 
án điện tử, giáo viên phải đăng ký với tổ chuyên môn và cán bộ phụ trách thiết bị 
của nhà trường. Sau khi tiếp nhận đăng ký, cán bộ thiết bị chuẩn bị các điều kiện 
như phòng học, bàn ghế, máy chiếu và các thiết bị cần thiết. Đến giờ học, giáo 
viên và học sinh đến tại phòng học đa năng và tiết học được tổ chức theo đúng kế 
hoạch.
 Ở thời điểm hiện tại khi mà giáo viên tiếp xúc nhiều với Internet thì việc khai 
thác bài soạn qua thư viện giáo án là điều không tránh khỏi. Tôi cho rằng, thư viện 
giáo án trên mạng Internet cũng là một dạng tài nguyên. Việc kết nối thông tin là 
để khai thác tài nguyên và ai cũng có quyền đó. Hơn nữa, việc khai thác nguồn tài 
nguyên này sẽ làm giảm bớt công sức và thời gian của giáo viên và mang lại 
những hiệu quả thiết thực. Người quản lý khi kiểm tra đánh giá chỉ cần quan tâm 
đến hiệu quả vận dụng vào giảng dạy của giáo viên. Nghĩa là, kiểm tra xem giáo 
án có phù hợp về nội dung và hình thức dạy học với đối tượng học sinh lớp đó hay 
không, hiệu quả có cao không. Với các giáo án điện tử, trước khi trình chiếu trên 
lớp, chuyên môn phải kiểm tra mức độ phù hợp của các kênh hình, điều chỉnh và 
bỏ bớt các hình ảnh không cần thiết, không phù hợp. 
 2. Tự chủ trong tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp.
 Hoạt động ngoài giờ lên lớp có vai trò quan trọng trong việc giáo dục đạo đức, 
giáo dục truyền thống và hình thành nhân cách, rèn luyện kỹ năng sống cho học 
sinh. 
 + Nhà trường phối hợp với Tổng phụ trách Đội tổ chức các hoạt động chung 
cho học sinh theo khối lớp hay toàn trường: Thi tìm hiểu về truyền thống địa 
phương, truyền thống quê hương đất nước; hoạt động kỷ niệm các ngày lễ; hoạt 
động chăm sóc, tìm hiểu di tích lịch sử văn hóa tại địa phương. các sân chơi trí tuệ 
 7

File đính kèm:

  • docskkn_doi_moi_cong_tac_quan_ly_chi_dao_thuc_hien_chuong_trinh.doc