Sáng kiến kinh nghiệm Xây dựng lớp học hạnh phúc ở trường THPT Diễn Châu 3
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Xây dựng lớp học hạnh phúc ở trường THPT Diễn Châu 3", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Xây dựng lớp học hạnh phúc ở trường THPT Diễn Châu 3

PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1.1. Lí do chọn đề tài Sự tôn vinh, kính trọng đối với nhà giáo không chỉ ở kiến thức uyên thâm hay ở tài nghệ sư phạm mà quan trọng hơn cả là ở sự mô phạm về phẩm chất đạo đức, lòng yêu nghề, yêu trò, sự mẫu mực trong lối sống, ở giá trị cao cả và trong sáng của nhân cách nhà giáo. Hãy yêu thương học trò bằng tất cả trái tim và tấm lòng nhân ái của mình, hãy lan tỏa cho học sinh niềm tin và tình yêu vào cuộc sống, vào tương lai bằng chính những ứng xử đầy tính nhân văn của mình. Hãy làm cho mỗi lớp học, mỗi ngôi trường thực sự trở nên hạnh phúc, mỗi ngày đến trường của các em học sinh thực sự là một ngày vui. Ngày 22/4/2019, Bộ GD&ĐT đã tổ chức Lễ phát động “Triển khai kế hoạch nâng cao năng lực ứng xử sư phạm, đạo đức nhà giáo vì một trường học hạnh phúc”. Mục tiêu của kế hoạch nhằm tạo sự chuyển biến căn bản trong nhận thức và hành động của đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên, hướng tới sự chuẩn mực trong ứng xử, không vi phạm các quy chế, quy định của ngành. Với việc xây dựng mô hình điểm “Trường học hạnh phúc - Thầy cô hạnh phúc - Học sinh hạnh phúc”, trong đó lấy tiêu chí trường học không có hiện tượng vi phạm đạo đức nhà giáo làm tiêu chí chính. Năm học 2019 - 2020 trường THPT Diễn Châu 3 được SGD&ĐT Nghệ An chọn làm thí điểm xây dựng mô hình trường học hạnh phúc. Để xây dựng được trường học hạnh phúc thì mỗi tập thể lớp của nhà trường cũng phải là nhân tố lớp học hạnh phúc. Lớp học hạnh phúc là nơi học sinh và giáo viên cảm thấy “muốn đến”, ở đó học sinh và giáo viên có hứng thú, niềm vui, sự mong chờ và những rung cảm, hạnh phúc. Lớp học hạnh phúc là nơi giúp giáo viên và học sinh hình thành cũng như duy trì các trạng thái cảm xúc tích cực. Mỗi lớp học hạnh phúc sẽ tạo nên một môi trường học đường hạnh phúc mà ở đó ai cũng cảm thấy được an toàn, được yêu thương và tôn trọng. Được sống, học tập và làm việc trong một môi trường hạnh phúc sẽ giúp mỗi cá nhân học sinh cũng như giáo viên thiết lập được tình cảm lành mạnh, góp phần phát triển nhân cách tốt đẹp của mỗi cá nhân,............................... Xuất phát từ những lí do trên, với trải nghiệm thực tế và hiểu biết khiêm tốn của bản thân, tôi đã lựa chọn đề tài: “Xây dựng lớp học hạnh phúc ở trường THPT Diễn Châu 3” PHẦN II. NỘI DUNG 1.CƠ SỞ LÍ LUẬN 1.1. Khái niệm hạnh phúc Mỗi con người sinh ra ở trên đời, chẳng ai lại không mong muốn mình được hạnh phúc. Tình cảm ấy, mơ ước chung ấy, không phân biệt giới tính, lứa tuổi, màu da, sắc tộc, tôn giáo... Chỉ có điều, mỗi người lại có một suy nghĩ riêng về hạnh phúc và không phải lúc nào, người nào cũng có sự cắt nghĩa “hạnh phúc” một cách rõ ràng. Trong cả tư tưởng phương Tây và phương Đông, các nhà triết học cổ đại đã đề cập về hạnh phúc trong các tác phẩm của họ. Theo Đức Phật, người ta có thể đạt được hạnh phúc thông qua sức mạnh của tâm trí, bằng cách vượt qua những nhu cầu và mong muốn, sự bình tĩnh hoặc sự an tâm và suy nghĩ tích cực (Fronsdal, 2005). Phật giáo xác định hạnh phúc là một thứ không chỉ là trung tâm của mỗi cá nhân, mà là một thứ gì đó được chia sẻ với những người khác. Trong The Dhammapada, hay giáo lý của Đức Phật, hạnh phúc là có bạn bè khi có nhu cầu nảy sinh (Fronsdal, 2005, trang 80). Theo Socrates, hạnh phúc không chỉ là mục đích của cuộc sống, mà còn là thứ gì đó có thể đạt được và có thể dạy được thông qua nỗ lực của con người; đặc biệt là thông qua “đức hạnh” (Beebe, 2003). Aristotle sau đó xác định hạnh phúc không chỉ là mục đích tồn tại của con người, mà còn là thứ gì đó phụ thuộc vào việc thực hiện tính cách đạo đức thông qua các đức tính trong đó là tình bạn, công lý và quyền công dân (Crisp, 2000). Hạnh phúc có thể được định nghĩa là ở trạng thái cảm xúc tích cực hoặc trạng thái ảnh hưởng tích cực, trong khi hạnh phúc đề cập đến một giá trị, hoặc những gì có thể được coi là tốt cho một người (Haybron, 2013). Theo từ điển tiếng Việt, hạnh phúc được hiểu “trạng thái sung sướng vì cảm thấy hoàn toàn đạt được ý nguyện”. Người ta có thể nói về hạnh phúc của cá nhân, một tổ chức như gia đình, nhà trường, một cơ quan đoàn thể và cũng có thể nói về hạnh phúc của cả một dân tộc. Như vậy, ta thấy có một điểm chung quan trọng trong quan niệm về hạnh phúc của nhiều quốc gia, đó là hạnh phúc nhất thiết phải gắn với niềm vui. Suy cho cùng, chính tình yêu mới là điều quan trọng nhất để con người mang lại những cảm giác và hạnh phúc cho nhau. 1.2. Trường học hạnh phúc Khái niệm trường học hạnh phúc bắt nguồn từ nhiệm vụ của UNESCO là thúc đẩy hòa bình thông qua giáo dục, và đặc biệt từ hai trong bốn trụ cột của việc học: Học cách sống cùng nhau và học cách trưởng thành. Mặc dù học cách sống cùng nhau bao gồm các phẩm chất chủ yếu dựa trên các mối quan hệ, bao gồm sự đồng cảm, khoan dung, tôn trọng sự đa dạng, giao tiếp và tinh thần đồng đội (UNESCO, 2014); Học tập để trưởng thành những phẩm chất xuất phát từ bên trong con người, như sáng tạo, tư duy phê phán, tự thúc đẩy, kiên trì và lạc quan (Faure et. al., 1972). ngày đến trường của học sinh thực sự là một ngày vui. Tiếp đó, các học sinh đến trường được trải nghiệm giờ học hạnh phúc và giờ ra chơi hạnh phúc; giao lưu sau giờ ra chơi và gửi thông điệp “Những mong muốn của các em về ngôi trường hạnh phúc”. Theo Đặng Tự Ân trường học hạnh phúc là ngôi trường mà ở đó học sinh được phát triển toàn diện, trở thành chính mình và các em được che chở bởi môi trường học tập an toàn, thân thiện và đầy tình thương. “Khoa học đã chứng minh, việc đưa mô hình trường học hạnh phúc vào nhà trường dưới dạng lồng ghép vào các mô hình dạy học đối mới khác thì thành tích học tập của học sinh được tăng lên 10 - 12%. Hạnh phúc như một loại kỹ năng mềm và được hình thành theo quy trình vòng tròn khép kín, như sau: Môi trường học đường - học sinh tỏ thái độ - Bắt đầu động não - Nhận thấy hạnh phúc (tích cực hay tiêu cực) - Đưa ra hành động phù hợp - Có thành tích học tập - Môi trường học đường" - Đặng Tự Ân. Hiện nay, nhận xét, đánh giá việc học tập được xem trọng hơn là việc xếp loại kết quả học tập. Đây là việc làm khó khăn hơn nhưng giá trị nó mang lại thì rất có ý nghĩa với người học, tạo tâm lý tốt hơn, khi việc nhận xét, đánh giá vì sự tiến bộ của người học đã tạo động lực học tập tích cực. Muốn vậy, các nhà trường, giáo viên phải hạn chế việc giảng dạy theo kiểu chỉ truyền thụ kiến thức và kiểm tra kiến thức theo tiêu chuẩn quy định, thay vào đó là việc nhận xét, đánh giá tạo nên động lực học tập cho học sinh. Hơn nữa, bằng cách khai thác tiềm năng của giáo dục để nâng cao hạnh phúc của người học, người học sẽ được trang bị tốt hơn và có động lực để đóng góp cho xã hội hòa bình hơn, công bằng hơn, bền vững hơn và cuối cùng là hạnh phúc hơn. Hơn bao giờ hết, điều này báo hiệu sự cần thiết của các trường học để trở thành những nơi hạnh phúc hơn. 1.3. Lớp học hạnh phúc Một lớp học hạnh phúc là lớp học tự xây dựng cho mình mục tiêu, sứ mệnh phù hợp với học sinh, giáo viên và bối cảnh giáo dục hiện nay; trong đó có mục tiêu “làm cho học sinh, giáo viên yêu trường, yêu lớp, cùng tiến bộ trên cơ sở những giá trị tốt đẹp”. Hạnh phúc ở đây có thể tập trung vào ba giá trị cốt lõi đó là: An toàn, yêu thương và tôn trọng. An toàn được hiểu bao gồm cả về thể chất và tinh thần. Điều kiện đủ của nó là trường học, lớp học cần có tối thiểu những cơ sở vật chất, nhân lực để bảo đảm an toàn cơ bản. Tuy nhiên, điều kiện đủ lại là an toàn về tinh thần. Điều đó chỉ có thể làm được khi quản lý nhà trường, giáo viên, nhân viên, học sinh đều có nhận thức đầy đủ về vai trò, trách nhiệm của bản thân; những quy định pháp lý mà họ được bảo vệ, phải tuân thủ, và nhất là có đầy đủ chuyên môn nghiệp vụ để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình. Một môi trường học đường chỉ có thể có hạnh phúc nếu các mối quan hệ được xây dựng và thực thi dựa trên yêu thương. Yêu thương bắt đầu từ sự thấu hiểu, chia sẻ với người khác mà không phải là sự ích kỉ, đơn phương thực hiện. Xây dựng lóp học hạnh phúc ở trường THPTDiễn Châu 3 nhiều yếu tố tích cực tạo thuận lợi cho sự phát triển nhân cách học sinh. Song cũng không ít những yếu tố tiêu cực như mặt trái của cơ chế thị trường, các tệ nạn xã hội, các loại sách báo, văn hóa phẩm độc hại đang hàng ngày ảnh hưởng xấu đến lối sống và phát triển nhân cách của học sinh. Nhìn chung, đa số học sinh có nhận thức đúng đắn về trách nhiệm, nghĩa vụ trong học tập, rèn luyện, tu dưỡng đạo đức để trở thành con ngoan, trò giỏi, thành ngường có ích cho xã hội. Học sinh rất quan tâm đến những vấn đề chính trị xã hội như công bằng xã hội, tương lai cá nhân và tiền đồ của xã hội. Vì vậy, các em có nhu cầu rất cao về công nghệ thông tin, được hiểu biết và thi thố tài năng. Điều này, được thể hiện rõ qua kết quả xuất sắc của các em học sinh tham dự các cuộc thi. Tuy nhiên, việc bỏ học, gây gổ, đánh nhau, gây áp lực, căng thẳng trong học sinh ở bậc THPT cũng đang là vấn đề xã hội đang rất quan tâm. Cùng với đó là các hiện tượng giáo viên gây áp lực, hoặc dùng bạo lực với học sinh ... tạo nên một môi trường học tập bất an, thiếu an toàn, lành mạnh. Tình trạng bạo lực học đường tại một số trường học Bên cạnh đó, cùng với sự thiếu thốn về các trang thiết bị phục vụ công tác giảng dạy và học tập, là sự xuống cấp nghiêm trọng về cơ sở vật chất lớp học, trường học. Theo ghi nhận của Báo GD&TĐ, tại một số trường THPT, nhiều bức tường nứt toác ngang dọc có thể nhìn thấu, lớp vữa trát phía ngoài và lớp sơn bị bong tróc rơi xuống từng mảng lớn. Trần nhà bị nứt nẻ, thấm dột, rêu mốc. Khu vực lan can các dãy nhà nhiều đoạn bị xuống cấp nghiêm trọng. Cầu thang bộ các dãy nhà, cửa sổ, cửa chính bị hư hỏng; nền gạch bong tróc, nứt nẻ. chỉ cần một TT Họ và tên Toán Tổ hợp Văn Thành tích khác 4 Ngô Thị Ngọc Ánh 8,75 8,2 7,5 5 Phan Quốc Bảo 9,0 8,4 7,25 6 Hoàng văn Cam 9,25 8,6 6 HSG huyện toán 7 Ngô Minh Chi 8,5 7 7,5 HSG huyện sinh 8 Nguyễn Lê Thảo Chi 8,5 8 7,75 9 Bùi Đức Chiến 8,75 8,4 5,5 HSG huyện Lý 10 Bùi Minh Chiến 7,75 7,4 6,75 HSG huyện Anh 11 Trần Văn Cung 8,75 7,4 6,25 12 Hoàng Ngọc Diệp 8,5 7,6 6,5 HSG huyện Lý 13 Lê Quốc Đạt 9,0 8,4 7,75 14 Cao Hoàng Đạt 8 7,6 8,25 15 Nguyễn Thùy Giang 8,5 7 6 16 Trần Quỳnh Giang 8,75 6,8 7,5 HSG huyện Toán 17 Ngô Đình Giáp 8,5 6 5,5 HSG huyện Lý 18 Nguyễn Văn Giáp 8 8,4 8,75 HSG huyện hóa 19 Bùi Ngọc Hiền 8,5 8,8 7,25 HSG huyện Toán 20 Chu Văn Hiếu 8,5 7 6,25 21 Đặng Khánh Huyền 9 8,2 8,25 HSG huyện Toán 22 Nguyễn Phúc Hưng 8,25 7,4 5,75 23 Nguyễn Văn Anh Khôi 8,5 8,6 7,5 HSG huyện Anh 24 Võ Lương Tuấn Kiệt 8,75 8,4 7,75 HSG huyện Toán 25 Nguyễn Khánh Linh 8,5 7,8 8,5 26 Hoàng Hải Linh 8,5 9,4 7,75 HSG huyện Anh 27 Cao Thành Lộc 8,75 8,2 7,25 28 Nguyễn Đức Lộc 8,5 6,4 6,75 HSG huyện Lý 29 Trần Thị Lý 8,5 7,4 7 30 Cao Thị Ngọc 8,5 7,2 7,25 31 Võ Kiều Oanh 8,75 8,2 6,5 32 Tăng Hoài Phương 8,5 9 7,5 HSG huyện Anh 33 Nguyễn Hữu Quang 9 7,8 4 34 Phan Anh Quân 8,75 8,4 7,75 35 Nguyễn Phan Quốc 8,25 9 7,25 toàn, thân thiện. - Không gian lớp học thoáng mát, ấm cúng và thân thiện. - Được sự quan tâm của chính quyền địa phương và các bậc phụ huynh. Đa số các em học sinh chăm ngoan, hiếu học. - Được sự quan tâm giúp đỡ, chỉ đạo sát sao của Ban giám hiệu và các ban ngành đoàn thể trong nhà trường giúp các lớp thực hiện tốt mục tiêu đề ra trong năm học 2020 - 2021, 2021-2022 là xây dựng lớp học hạnh phúc. - Sự quyết tâm của Hội đồng sư phạm nhà trường trong việc thực hiện các cuộc vận động và phong trào thi đua do ngành phát động. - Có sự kết hợp chặt chẽ giữa giáo viên chủ nhiệm với giáo viên bộ môn trong công tác giảng dạy và quản lý học sinh lớp. - Bản thân là giáo viên chủ nhiệm nhiều năm luôn nhiệt tình trong công tác, quan tâm giáo dục học sinh về mọi mặt. Vững vàng về chuyên môn nghiệp vụ, có khả năng sử dụng công nghệ thông tin và tận tâm với nghề. - Được sự quan tâm giúp đỡ, ủng hộ của phụ huynh học sinh và các em học sinh trong lớp rất hứng thú với các phong trào thi đua trong nhà trường. 2.2.2. Khó khăn - Một bộ phận học sinh có lối sống thiếu quan tâm chia sẻ, thiếu tinh thần cộng đồng. Một bộ phận học sinh chưa chăm học, thiếu tinh thần phấn đấu, thiếu ý thức tự lập, tự rèn. Việc chưa chăm học luôn gắn liền với việc “Hổng kiến thức cơ bản” và tình trạng gian lận trong học tập, kiểm tra, thi cử khiến cho việc thực hiện chủ trương “Hai không” chưa thật hiệu quả. - Trong tình trạng hiện nay với sự bùng nổ của công nghệ thông tin lôi kéo sự ham chơi, say mê các trò chơi trên intenet dẫn đến một số em có biểu hiện lười biếng, chán học. - Một số phụ huynh ít quan tâm đến việc học của các em, có tư tưởng phó thác cho giáo viên. Do đó, một số em học sinh thường không có ý thức trong học tập, thậm chí các em không hề soạn bài, không xem bài mới hay học bài cũ ở nhà. - Địa bàn dân cư rộng các em lại ở xa trường, đa số gia đình các em làm nghề nông nên việc đi lại đến trường còn gặp nhiều khó khăn. - Sự tương tác giữa các học sinh chưa nhiều, hay ganh đua lẫn nhau, tính tập thể chưa cao. Học sinh chủ yếu thiên về các môn khoa học tự nhiên nên kĩ năng giao tiếp, kĩ năng xã hội còn hạn chế. Bên cạnh đó học sinh cũng chịu áp lực từ kì vọng của phụ huynh và yêu cầu cao về chất lượng mà nhà trường đặt ra chỉ tiêu cho tập thể lớp.
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_xay_dung_lop_hoc_hanh_phuc_o_truong_th.docx
Sáng kiến kinh nghiệm Xây dựng lớp học hạnh phúc ở trường THPT Diễn Châu 3.pdf