Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao kỹ năng hỏi cung, phúc cung bị can và kiểm sát hoạt động hỏi cung của Kiểm sát viên
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao kỹ năng hỏi cung, phúc cung bị can và kiểm sát hoạt động hỏi cung của Kiểm sát viên", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao kỹ năng hỏi cung, phúc cung bị can và kiểm sát hoạt động hỏi cung của Kiểm sát viên
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH BÌNH ĐỊNH CHUYÊN ĐỀ “Nâng cao kỹ năng hỏi cung, phúc cung bị can và kiểm sát hoạt động hỏi cung của Kiểm sát viên” Đồng tác giả: 1. Trần Văn Sang – Viện trưởng – Chủ nhiệm chuyên đề 2. Nguyễn Thành Quát – Phó Viện trưởng Phó – Chủ nhiệm chuyên đề 3. Đỗ Tấn Phước – Trưởng phòng 2 – Tham gia biên soạn 4. Mai Văn Cường – Kiểm sát viên Trung cấp – Tham gia biên soạn 5. Nguyễn Hoàng Anh – Kiểm sát viên Sơ cấp – Tham gia biên soạn 6. Bùi Nguyên Vy Thương – Kiểm sát viên Sơ cấp – Tham gia biên soạn BÌNH ĐỊNH, NĂM 2021 3 CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG HỎI CUNG BỊ CAN VÀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG HỎI CUNG BỊ CAN CỦA NGÀNH KIỂM SÁT BÌNH ĐỊNH TRONG NHỮNG NĂM QUA ...............................................................................52 3.1. Tình hình thực hiện hoạt động hỏi cung bị can và kiểm sát hoạt động hỏi cung bị can của Kiểm sát viên hai cấp tỉnh Bình Định .................................................52 3.2. Một số kết quả đã đạt được............................................................................53 3.3. Những hạn chế, khó khăn và nguyên nhân của những hạn chế, khó khăn....55 3.3.1. Những hạn chế, khó khăn.......................................................................55 3.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế, khó khăn, vướng mắc.......................58 CHƯƠNG 4: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG HỎI CUNG, PHÚC CUNG VÀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG HỎI CUNG BỊ CAN ...................................................................................................................................63 4.1. Một số vấn đề Kiểm sát viên cần lưu ý thực hiện khi hỏi cung bị can..........63 4.2. Nâng cao vai trò, trách nhiệm của Kiểm sát viên trong hoạt động phúc cung bị can.........................................................................................................................65 4.3. Tăng cường công tác phối hợp ......................................................................71 4.4. Nâng cao chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên trong hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra......................................................................................71 4.5. Nâng cao chất lượng cơ sở vật chất để phục vụ công tác điều tra và hỏi cung bị can.........................................................................................................................72 KẾT LUẬN..............................................................................................................73 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................75 5 LỜI NÓI ĐẦU Trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay, để giải quyết nhanh chóng vụ án hình sự và xử lý công minh, đúng đắn kịp thời mọi hành vi phạm tội, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, các cơ quan tiến hành tố tụng phải triệt để tuân thủ các quy định của pháp luật Tố tụng hình sự để góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân; đồng thời, giáo dục mọi người đề cao ý thức tuân theo pháp luật, thượng tôn pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Điều tra trong tố tụng hình sự là giai đoạn đầu tiên có vai trò quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Giai đoạn này cơ quan tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ để chứng minh tội phạm, người thực hiện hành vi phạm tội, xác định tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra. BLTTHS năm 2015, có nhiều quy định liên quan đến chủ thể điều tra, chủ thể THQCT và KSĐT vụ án hình sự. Bộ luật này đã thay đổi theo hướng tăng cường trách nhiệm công tố của KSV, mở rộng thẩm quyền cho KSV nhằm nâng cao chất lượng THQCT và KSĐT vụ án hình sự không làm oan người vô tội, bỏ lọt tội phạm. Đặc biệt, tại khoản 4 Điều 183 BLTTHS năm 2015 quy định trong trường hợp bị can kêu oan, khiếu nại hoạt động điều tra hoặc có căn cứ xác định việc điều tra vi phạm pháp luật hoặc trong trường hợp khác khi xét thấy cần thiết thì bắt buộc KSV phải trực tiếp hỏi cung bị can.Như vậy, tầm quan trọng của biện pháp hỏi cung bị can đó là biện pháp điều tra công khai, trực diện đối với người có dấu hiệu tội phạm, nhằm xác định toàn bộ sự thật khách quan về hành vi phạm tội của đối tượng và của đồng phạm, cũng như những vấn đề cần thiết khác mà bị can biết. Đây là một trong những biện pháp nghiệp vụ cần thiết không thế thiếu trong công tác phòng ngừa và đấu tranh phòng, chống tội phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng; đồng thời, là một khâu rất quan trọng trong hoạt động tố tụng hình sự. Tuy nhiên, trong thời gian qua, việc nghiên cứu các quy định pháp luật và áp dụng trong thực tiễn của KSV, ĐTV của các cơ quan tiến hành tố tụng hai cấp tỉnh Bình Định còn bộc lộ nhiều hạn chế ảnh hưởng nhất định đến chất lượng giải quyết 7 CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HỎI CUNG BỊ CAN 1.1. Một số vấn đề lý luận về hỏi cung bị can, phúc cung bị can 1.1.1. Khái niệm hỏi cung bị can, phúc cung bị can Quá trình giải quyết vụ án hình sự là một quá trình liên tục gồm nhiều hoạt động có quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong đó, giai đoạn điều tra đóng vai trò quan trọng nhằm tìm kiếm chứng cứ, chứng minh tội phạm, người phạm tội, xác định thiệt hại do tội phạm gây ra mà trong đó hoạt động HCBC, PCBC là một biện pháp thu thập chứng cứ quan trọng. Điều 183 BLTTHS năm 2015 quy định về việc hỏi cung: “Việc HCBC phải do ĐTV tiến hành ngay sau khi có quyết định khởi tố bị can. Có thể HCBC tại nơi tiến hành điều tra hoặc tại nơi ở của người đó”. Như vậy, có thể thấy rằng BLTTHS đã không có điều luật cụ thể khái niệm về HCBC. Từ điển Luật học đưa ra định nghĩa: “HCBC là hoạt động tố tụng hình sự do ĐTV tiến hành khi có quyết định khởi tố bị can để lấy lời khai về các tình tiết của vụ án hình sự”. Vì vậy, từ việc nghiên cứu những quy định của BLTTHS, chúng tacó thể khái niệm về HCBC như sau: “HCBC là một biện pháp điều tra trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự do ĐTV, KSV và những người có thẩm quyền khác tiến hành sau khi có quyết định khởi tố bị can nhằm mục đích thu thập các tình tiết về nội dung vụ án, hành vi phạm tội của bị can và các tình tiết khác có ý nghĩa cho việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự”.Trong giai đoạn truy tố, phúc cung bị can là một trong những nhiệm vụ, quyền hạn của VKS do KSV được phân công thực hiện ngay sau khi CQĐT ra Bản kết luận điều tra đề nghị truy tố và chuyển hồ sơ vụ án sang VKS. Phúc cung là một hoạt động nghiệp vụ chưa được quy định cụ thể trong điều luật. Hoạt động này được xác định và được thực hiện bởi CQĐT và VKS trong lĩnh vực hình sự để điều tra, giải quyết vụ án và được hình thành kể từ khi ĐTV(trong giai đoạn điều tra), KSV(trong giai đoạn truy tố) thấy có căn cứ để nghi ngờ tính khách quan, chính xác của các tài liệu, chứng cứ của vụ án. 9 nhữngmục đích, động cơ đã thúc đẩy bị can phạm tội; những công cụ, phương tiện,thủ đoạn phạm tội, phương pháp đã được bị can sử dụng khi thực hiện hành viphạm tội, những tài sản đã chiếm đoạtVì vậy, khi HCBC,ĐTV, KSV cần áp dụng mọi biện pháp mà pháp luật cho phép để có thể thuthập được tất cả những thông tin mà bị can biết, có liên quan đến vụ án nhằmlàm rõ nội dung vụ án, hành vi phạm tội của bị can, lập hồ sơ đề nghị xử lýđúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Hai là: Tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Hiến pháp năm 2013 – Đạo luật gốc, lần đầu tiênđã quy định nguyên tắc về giới hạn quyền tại khoản 2 Điều 14: “Quyền conngười, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trongtrường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xãhội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”.Ở nước ta, quyền conngười phải luôn được tôn trọng và đảm bảo thực hiện. Tiếp tục đảm bảo quyền conngười đã được ghi nhận tại các bản Hiến pháp trước đây và Hiến pháp hiệnhành, tại Điều 8BLTTHS năm 2015quy định: “Khi tiến hành tố tụng, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tôn trọng và bảo vệ quyền con người...” . Đồng thời, tại khoản 1 Điều 31Hiến pháp năm 2013khẳng định:“Người bị buộc tội được coi làkhông có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bảnán kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”; do vậy, bị can vẫn có đầyđủ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân mà các quyền này phải đượctôn trọng và đảm bảo thực hiện đầy đủ. Do chưa được coi là có tội nên các cơquan tiến hành tố tụng không được đối xử với bị can, bị cáo như người có tội,kể cả trường hợp họ bị áp dụng biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất nhưtạm giam.Để quyền con người được tôn trọng và đảm bảo thực sự,pháp luật TTHS đòi hỏi những chủ thể có thẩm quyền hỏi cung phải thực hiệntrách nhiệm của mình trong phạm vi pháp luật quy định, không được làm tùytiện, vượt khỏi phạm vi giới hạn của luật dẫn đến việc xâm phạm các quyềnvà lợi ích hợp pháp của công dân. Khi tiến hành hỏi cung, thu thậpchứng cứ phải tuân theo đúng trình tự, thủ tục luật định, không được áp dụngcác biện pháp xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sảncủa công dân như bức cung, nhục hình Điểm d khoản 2 Điều 60BLTTHS năm 2015 quyđịnh: “Bị can có quyền trình 11 đảm bảo tính nhanh chóng, khách quan, toàn diệnvà đầy đủ của hoạt động điều tra mà còn thể hiện tính phòng ngừa tích cựccủa biện pháp này nói riêng và hoạt động điều tra nói chung. 1.1.3. Nguyên tắc của Bộ luật Tố tụng hình sự trong hỏi cung bị can 1.1.3.1. Bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa là một nguyên tắc hiến định đã được quán triệt trong mọi hoạt động điều tra nói chung và hoạt động TTHS nói riêng của các cơ quan Nhà nước, các cá nhân có thẩm quyền. Do vậy, HCBC -một biện pháp trong giai đoạn điều tra, giải quyết vụ án hình sự cũng không nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của nguyên tắc này. Cụ thể, tại Điều 7 BLTTHS năm 2015 quy định: “Mọi hoạt động tố tụng hình sự phải được tiến hành theo quy định của Bộ luật này”. 1.1.3.2. Bảo đảm nguyên tắc xác định sự thật của vụ án và sự vô tư của những người tiến hành tố tụng Yêu cầu cơ bản của việc giải quyết vụ án hình sự là xác định đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Để thực hiện được điều đó, đòi hỏi phải làm rõ sự thật của vụ án xảy ra. Trách nhiệm này thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Điều 15BLTTHS năm 2015 quy định:“Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh mình vô tội”. Theo đó, các chủ thể có thẩm quyền hỏi cung phải thực hiện đúng những quy định của BLTTHS để xác định sự thật của vụ án, lời khai của bị can một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội. 1.1.3.3. Bảo đảm nguyên tắc khác liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị can * Bảo đảm thực hiện quyền bào chữa của bị can Quyền bào chữa trong giai đoạn điều tra nói chung và hoạt động HCBC nói riêng là một trong những quyền cơ bản của bị can. Điều 16 BLTTHS quy định: “Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa cho mình, nhờ luật sự hoặc người khác bào chữa”.Trách nhiệm bảo đảm thực hiện quyền bào chữa trong hoạt động này chủ yếu 13 chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Như vậy, theo quy định của BLTTHS hiện hành thì bị can là người hoặc pháp nhân bị khởi tố về hình sự và tham gia tố tụng từ khi có quyết định khởi tố bị can. 1.2.2. Chủ thể của hỏi cung bị can HCBClànhiệmvụbắtbuộckhôngthểthiếutrongbấtcứgiaiđoạnnàocủacôngtácđiềut ra(trừtrườnghợpsaukhikhởitốthìbịcanchếthoặcbỏtrốn).Chínhvìvậykhoản1Điều183BL TTHS2015chỉrõ:“ViệcHCBCphảidoĐTVtiếnhànhngaysaukhicóquyếtđịnhkhởitốbịcan ”. Theo quy định trên, có thể hiểu chủ thể của hoạt động HCBC là ĐTV. Ngoài ra, BLTTHS 2015 cũng đã trao quyền hỏi cung cho KSV. Theo đó tại khoản 4 ĐIều 183BLTTHS năm 2015 quy định những trường hợp KSV trực tiếp HCBC như sau: “KSV hỏi cung bị can trong trường hợp bị can kêu oan, khiếu nại hoạt động điều tra hoặc có căn cứ xác định việc điều tra vi phạm pháp luật hoặc trong trường hợp khác khi xét thấy cần thiết”.Trường hợp cầnthiếtdẫnđếnviệcKSVHCBCđượchiểulàtrongquátrìnhKSĐTvụánhình sự,KSV muốn kiểmtratínhchính xác,kháchquantrong lời khai hoặctự khaicủabị can màĐTV đã thuthập;trườnghợpbịcanlàcán bộ cấpcao,chức sắctrongtôngiáo,nhân sĩ,trí thức, vănnghệ sĩcó uy tín lớntrongnước,vụáncónhiềuchứng cứ,cácchứngcứ quantrọngcủavụáncó mâuthuẫn, để củng cốtàiliệu,chứng cứphụcvụchoviệctruy tố; trường hợp bị can bị khởi tố vềtội đặc biệt nghiêm trọng thìKSV có thể trực tiếp gặp,HCBC.Khi cần hỏi cung,KSV phải báo cáo Viện trưởng, Phó Việntrưởng, Thủ trưởng đơn vị và thông báo trước cho Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điềutra. Và việc KSV HCBC được tiến hành theo quy định tại Điều 183 BLTTHS năm 2015. 1.2.3. Trình tự, thủ tục tiến hành hỏi cung bị can Sau khicóquyếtđịnh khởi tố bịcan,ĐTVphảitiến hànhHCBCngay.Việc hỏi cungphảiđượctiến hànhtheo đúngtrình tự,thủtục đãđược quy địnhcủa phápluật tụng hình sự.Trình tự,thủ tục khởi tố vàHCBC đượcquy định từ Điều 179 đến Điều 184BLTTHSnăm 2015. * Thời gian và địa điểm hỏi cung: Khoản 1 Điều 183 BLTTHS năm 2015 quy định:
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_nang_cao_ky_nang_hoi_cung_phuc_cung_bi.doc

