Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao chất lượng bản yêu cầu điều tra của Kiểm sát viên tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao chất lượng bản yêu cầu điều tra của Kiểm sát viên tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao chất lượng bản yêu cầu điều tra của Kiểm sát viên tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định
1 1. Tính cấp thiết của đề tài Viện kiểm sát nhân dân tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra là một trong những nội dung trọng tâm của cải cách tư pháp. Để đáp ứng yêu cầu nói trên cần phải phát huy đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó giải pháp có ý nghĩa quan trọng, quyết định là nâng cao trách nhiệm của Kiểm sát viên trong việc đề ra yêu cầu điều tra khi thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra vụ án hình sự. Những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự và trách nhiệm chứng minh tội phạm đã được quy định tại Điều 85 Bộ luật Tổ tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015, theo đó Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tinh tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chúng minh là mình vô tội. Khi điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án phải chứng minh: Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; ai là người thực hiện hành vi phạm tội, có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội; những tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và những đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo; tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra. Đối vói các vụ án do người chưa thành niên phạm tội gây ra, khi tiến hành điều tra, truy tố và xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán cần phải xác định rõ: Tuổi, trình độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi phạm tội của người chưa thành niên; điều kiện sinh sống và giáo dục; có hay không có người thành niên xúi giục; nguyên nhân và điều kiện phạm tội. 3 Từ lý luận và thực tiễn cho thấy, KSV chỉ ban hành bản yêu cầu điều tra khi ĐTV điều tra chưa toàn diện, triệt để, còn có tồn tại trong việc thu thập chứng cứ và vi phạm thủ tục tố tụng làm ảnh hưởng đến chất lượng giải quyết vụ án. Đối với các vụ án, ĐTV đã thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, qua thực hành quyền công tố và KSĐT vụ án, KSV thấy không cần phải làm rõ vấn đề gì, không có vi phạm thì không nhất thiết phải ban hành bản yêu cầu điều tra. Từ sự phân tích trên nên chúng tôi lựa chọn tình huống “Nâng cao chất lượng bản yêu cầu điều tra của Kiểm sát viên tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định” làm đề tài, nhằm đáp ứng yêu cầu cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. 2. Thực trạng ban hành bản yêu cầu điều tra tại Viện KSND tỉnh Bình Định Trong thời gian qua, Viện KSND hai cấp tỉnh Bình Định thực hiện tốt việc nâng cao chất lượng kiểm sát điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra. Việc đề ra yêu cầu điều tra đối với từng vụ án cụ thể đã được đơn vị chú trọng nên chất lượng và hiệu quả của văn bản yêu cầu điều tra từng bước được nâng lên. Thực hiện chỉ tiêu của Ngành và kế hoạch công tác kiểm sát hàng năm, Viện KSND hai cấp tỉnh Bình Định luôn đề ra và thực hiện tốt chỉ tiêu các vụ án đã khởi tố đều phải có yêu cầu điều tra.Theo đó, 100% vụ án ngay sau khi khởi tố, Kiểm sát viên được phân công kiểm sát điều tra đều nghiên cứu kỹ hồ sơ và đề ra yêu cầu điều tra đối với vụ án. Bản yêu cầu điều tra đã định hướng cho Điều tra viên, Cơ quan điều tra để tiến hành điều tra, làm rõ những vấn đề cần chứng minh trong vụ án hình sự. Bản yêu cầu điều tra ngày càng chất lượng, đảm bảo tính khách quan, toàn diện, cụ thể, từng vấn đề cần yêu cầu Cơ quan điều tra làm rõ như: Thời gian, địa điểm, động cơ, mục đích, cách thức, phương tiện, công cụcủa hành vi phạm tội; yêu cầu làm rõ vai trò, tính chất của yếu tố đồng phạm; yêu cầu truy tìm, thu giữ, bảo quản vật chứng; xác định cụ thể tính chất, mức độ, số lượng, tình trạng bị xâm phạm về sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của bị can, bị hại, 5 vay tiền. Khi nhận thế chấp Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất để cho H vay tiền, ông Bình không biết tài sản trên Công ty H đã thế chấp để vay tiền tại ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh PT. Hành vi dùng một tài sản đã thế chấp vay tiền hai nơi của ông Lê Văn H có dấu hiệu phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 139/BLHS. Đối với vụ án hình sự trên, bản yêu cầu điều tra của Viện kiểm sát nhân dân huyện T chỉ ra 04 nội dung cần làm rõ, cụ thể: - Làm rõ động cơ, mục đích, thủ đoạn và phương thức thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của bị can Lê Văn H. Vai trò của Lê Thị Mỹ P (vợ của bị can) trong vụ án? - Ngoài việc bị can thế chấp nhà xưởng trên lô đất số A14 (diện tích 4.624,8m2), tọa lạc tại Khu công nghiệp PT và tài sản gắn liền trên đất cho Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh PT và cho ông Nguyễn Ngọc B; bị can còn thế chấp tài sản trên cho ai nữa không? - Lấy lời khai của những người có liên quan, nhân chứng để làm rõ nội dung, tình tiết của vụ án. Và cho đối chất khi xét thấy cần thiết. Từ tình huống trên, ta có thể thấy yêu cầu điều tra mang tính hình thức, nội dung còn chung chung không nêu rõ được những vấn đề cần điều tra thu thập, củng cố chứng cứ, mà mục đích ban hành bản yêu cầu điều tra chỉ là để đối phó khi cấp trên kiểm tra hồ sơ. Một số vấn đề trong bản yêu cầu điều tra còn dài dòng, khó hiểu, dẫn đến ĐTV khó thực hiện hoặc những vấn đề đã được thu thập trong hồ sơ vụ án nhưng KSV vẫn đề ra yêu cầu điều tra. Trong quá trình điều tra vụ án, giữa Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra, giữa Điều tra viên và Kiểm sát viên luôn có sự phối hợp chặt chẽ với nhau nhằm làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án. Khi nhận được bản yêu cầu điều tra của Viện kiểm sát, Điều tra viên phải nghiên cứu để tiến hành điều tra những vấn đề mà Kiểm sát viên yêu cầu, trường hợp không nhất trí thì Điều tra viên báo cáo Thủ trưởng Cơ quan điều tra và Kiểm sát viên báo cáo Lãnh 7 Điều tra viên chưa thực hiện hoặc thiếu kiên quyết khi Điều tra viên không thực hiện hết các yêu cầu điều tra dẫn đến vụ án phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc cấp phúc thẩm phải hủy án để điều tra lại. Do vậy, nâng cao trình độ, kỹ năng nghiệp vụ của Kiểm sát viên là một yêu cầu và nhiệm vụ quan trọng khi giải quyết vụ án hình sự. 3. Đề xuất, kiến nghị Để nâng cao chất lượng, tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với điều tra theo tinh thần cải cách tư pháp mà các Nghị quyết của Bộ Chính trị, Nghị quyết của Đại hội Đảng đã đặt ra. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định cần chú trọng nâng cao hiệu lực và hiệu quả của bản yêu cầu điều tra với những giải pháp cụ thể sau đây: 3.1. Đối với Kiểm sát viên: Khác với Kế hoạch điều tra của Cơ quan điều tra, Yêu cầu điều tra của Kiểm sát viên là văn bản pháp lý có tính chất định hướng cho hoạt động điều tra đúng những vấn đề cần phải điều tra và Cơ quan điều tra, Điều tra viên phải có trách nhiệm thực hiện đầy đủ và nhanh chóng. Căn cứ vào Yêu cầu điều tra của Kiểm sát viên, Điều tra viên xây dựng Kế hoạch điều tra vụ án báo cáo Lãnh đạo duyệt và tiến hành các hoạt động điều tra theo kế hoạch. Kế hoạch điều tra vụ án bao gồm các hoạt động điều tra theo tố tụng và các hoạt động nghiệp vụ trinh sát mang tính chất nội bộ của Cơ quan điều tra, không mang tính pháp lý bắt buộc và không được đưa vào hồ sơ vụ án. Hoạt động đề ra Yêu cầu điều tra của Kiểm sát viên bắt đầu từ khi khởi tố vụ án, xuyên suốt quá trình điều tra và kết thúc khi vụ án được đình chỉ hoặc truy tố bằng bản Cáo trạng. Hình thức của yêu cầu điều tra đã được hướng dẫn tại Mục 15.1 của Thông tư liên tịch số 05/2005/TTLT-VKSTC- BCA - BQP ngày 07/9/2005 của VKSND tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng và Điều 19 Quy chế số 07 ngày 02/01/2008 của VKSND tối cao, theo 9 Đề ra yêu cầu điều tra một cách toàn diện, chính xác, đầy đủ đòi hỏi Kiểm sát viên phải biết phân tích, tổng hợp, đánh giá chứng cứ một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ đúng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm và hậu quả của nó. Phải xác định được vai trò, trách nhiệm và nhân thân của từng bị can, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trên cơ sở nghiên cứu kỹ các tài liệu điều tra đã có trong hồ sơ, đối chiếu với quy định về những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự để tìm ra các vấn đề chưa được làm sáng tỏ, từ đó yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành điều tra. Việc thu thập chứng cứ phải khách quan, toàn diện, đầy đủ cả chứng cứ buộc tội và chứng cứ vô tội của bị can, không được bỏ sót một chứng cứ cần thiết nào, bởi thực tế đã chứng minh, trong quá trình điều tra, đôi khi bỏ qua một tình tiết nhỏ nhưng dẫn đến hậu quả vô cùng lớn. Cần chú trọng yêu cầu thu thập các chứng cứ vật chất vì đây là nguồn chứng cứ rất quan trọng có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội đặc biệt trong những vụ án phức tạp các bị can phản cung chối tội, người bị hại, người làm chứng và những người tham gia tố tụng khác thay đổi lời khai. Khi tiến hành điều tra vụ án, những vấn đề đương nhiên Điều tra viên phải làm (như lập danh chỉ bản, xác định căn cước, lý lịch bị can...) thì không cần yêu cầu điều tra bằng văn bản. Nếu trong hồ sơ vụ án thiếu những tài liệu đó thì Kiểm sát viên trao đổi yêu cầu Điều tra viên bổ sung. Cần lưu ý, nội dung bản yêu cầu điều tra phải nêu lên được những vấn đề chưa được Cơ quan điều tra chứng minh, làm rõ trong vụ án tùy thuộc vào nội dung từng vụ án và từng loại tội phạm cụ thể. Yêu cầu điều tra đòi hỏi phải mang tính khả thi, có nội dung rõ ràng, tránh tình trạng nêu yêu cầu không rõ ràng, không mang tính khả thi khiến Điều tra viên không thể tiến hành điều tra được. Ví dụ, trong vụ án giết người xảy ra trên biển, sau khi gây án bị can đã ném dao là hung khí xuống biển, rõ ràng con dao là vật chứng rất quan 11 - Bước 4: Soạn thảo yêu cầu điều tra đảm bảo đúng hình thức, nội dung quy định. - Bước 5: Trình Lãnh đạo Viện thông qua bản yêu cầu điều tra trước khi ban hành. Sau khi Kiểm sát viên ký và đóng dấu, bản yêu cầu điều tra được gửi cho Cơ quan điều tra và lưu hồ sơ kiểm sát. Kiểm sát viên cần làm việc với Điều tra viên về từng nội dung yêu cầu điều tra để có sự thống nhất về hoạt động điều tra. Những nội dung nào Điều tra viên chưa rõ hoặc hiểu chưa đầy đủ thì cần giải thích. Trong trường hợp cần thiết có thể trao đổi với Điều tra viên về cách thức tiến hành điều tra để đạt được nội dung theo yêu cầu điều tra. - Bước 6: Kiểm sát viên thường xuyên theo dõi tiến độ điều tra, những vấn đề phát sinh cần điều tra tiếp thì trao đổi trực tiếp bằng lời với Điều tra viên hoặc Lãnh đạo Cơ quan điều tra để củng cố hoặc ban hành yêu cầu điều tra bổ sung tiếp theo. - Bước 7. Trước khi vụ án kết thúc điều tra, Kiểm sát viên phải nghiên cứu hồ sơ để xác định toàn bộ những yêu cầu điều tra đã được Điều tra viên, Cơ quan điều tra thực hiện đúng và đầy đủ chưa, Kiểm sát viên và Điều tra viên cùng nhau rà soát lại toàn bộ chứng cứ, thủ tục tố tụng có trong hồ sơ vụ án và lập biên bản làm việc, nếu xét thấy còn những vấn đề cần phải chứng minh, thu thập thì Kiểm sát viên yêu cầu Điều tra viên phải hoàn tất trước khi kết luận điều tra vụ án. 3.2. Đối với Lãnh đạo Viện kiểm sát: - Tổ chức bố trí, sắp xếp, phân công cán bộ, Kiểm sát viên có trình độ, chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, có kinh nghiệm, bản lĩnh trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra để phát huy thế mạnh trong việc đề ra yêu cầu điều tra, bảo đảm yêu cầu điều tra có chất lượng, góp phần giải quyết vụ án nhanh chóng, chính xác, đúng quy định của pháp luật. - Chú trọng việc hướng dẫn, chỉ đạo Kiểm sát viên đề ra yêu cầu điều tra
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_nang_cao_chat_luong_ban_yeu_cau_dieu_t.doc

