Sáng kiến kinh nghiệm Một vài biện pháp chỉ đạo việc giáo dục bảo vệ môi trường cho học sinh tại Trường Tiểu học Lê Thị Hồng Gấm
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một vài biện pháp chỉ đạo việc giáo dục bảo vệ môi trường cho học sinh tại Trường Tiểu học Lê Thị Hồng Gấm", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một vài biện pháp chỉ đạo việc giáo dục bảo vệ môi trường cho học sinh tại Trường Tiểu học Lê Thị Hồng Gấm

MỘT VÀI BIỆN PHÁP CHỈ ĐẠO VIỆC GIÁO DỤC BẢO VỆ MÔITRỪỜNG CHO HỌC SINH TẠI TRƯỜNG TH LÊ THỊ HỒNG GẤM 1. ĐẶT VẤN ĐỀ: Hiện nay, tình trạng ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên, huỷ hoại giống loài, ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ con người đang trở thành hiểm họa đối với đời sống của sinh giới và cả con người ở bất kỳ phạm vi nào, từ quốc gia, khu vực đến toàn cầu. Cùng với sự phát triển kinh tế như vũ bão dưới tác động của cuộc cách mạng Khoa học - kĩ thuật và sự gia tăng dân số quá nhanh, con người đã khai thác quá mức các nguồn tài nguyên thiên nhiên, đã tàn phá môi trường, gây nên những tác động nặng nề đến sự suy thoái môi trường toàn cầu trên nhiều phương diện. Môi trường sống của chúng ta hiện nay thực sự đang lâm vào cuộc khủng hoảng với qui mô toàn cầu và trở thành nguy cơ trực tiếp đối với cuộc sống hiện tại và sự tồn vong của xã hội trong tương lai. Đất nước Việt Nam chúng ta đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, sự ô nhiễm môi trường đã và đang xảy ra cục bộ, từng lúc, từng nơi và đang lan rộng trên khắp mọi miền của đất nước. Theo các nguồn thông tin của Tổng cục Môi trường - Bộ Tài nguyên và Môi trường: “Ước tính tổng thiệt hại kinh tế của nước ta do ô nhiêm môi trường gây ra trong thời gian qua chiếm từ 1,5-3% GDP. Hầu hết môi trường từ đất, nước, không khí, các khu dân cư, khu công nghiệp từ thành thị đến nông thôn đã và đang bị xuống cấp, trở thành vấn đề bức xúc của toàn xã hội ”. Bởi thế việc bảo vệ môi trường là vấn đề cấp thiết đối với toàn xã hội. Giáo dục bảo vệ môi trường (BVMT) vì mục tiêu phát triển bền vững là một trong những nhiệm vụ quan trọng mà Đảng và Nhà nước ta đang rất quan tâm. Từ năm 2001, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 1363/QĐ-TTg phê duyệt đề án “Đưa các nội dung giáo dục bảo vệ môi trường vào hệ thống giáo dục quốc dân”. Vào năm 2004, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 41/NQ-TW về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Luật Bảo vệ môi trường (BVMT) năm 2005 được Quốc Hội CHXHCN Việt Nam khoá XI kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29/11/2005. Thực hiện các chủ trương của Đảng và Nhà nước, năm 2005, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ra Chỉ thị 02/2005/CT-BGD&ĐT “Tăng cường công tác giáo dục bảo vệ môi trường” Xác định nhiệm vụ trọng tâm khai tới tất cả các cấp học trong hệ thống giáo dục của Việt Nam. Các chiến dịch nâng cao nhận thức cộng đồng, và vận động quần chúng cũng như các tổ chức xã hội khác tham gia vào việc bảo vệ mội trường tiến hành hàng năm. Hệ thống thông tin và dữ liệu môi trường cũng đã được xây dựng và ngày càng hoàn thiện hơn. Song song với những thành quả này vẫn còn những hạn chế, tồn tại trong công tác giáo dục, đào tạo và nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường. Năm 1987, tại Hội nghị về môi trường ở Moscow do UNEP và UNESCO đồng tổ chức, đã đưa ra kết luận về tầm quan trọng của giáo dục môi trường: “Nếu không nâng cao được sự hiểu biết của công chúng về những mối quan hệ mật thiết giữa chất lượng môi trường với quá trình cung ứng liên tục các nhu cầu ngày càng tăng của họ, thì sau này sẽ khó làm giảm bớt được những mối nguy cơ về môi trường ở các địa phương cũng như trên toàn thế giới. Bởi vì, hành động của con người tùy thuộc vào động cơ của họ và động cơ này lại tùy thuộc vào chính nhận thức và trình độ hiểu biết của họ. Do đó, giáo dục môi trường là một phương tiện không thể thiếu để giúp mọi người hiểu biết về môi trường”. Hội nghị quốc tế về Giáo dục môi trường của Liên hợp quốc tổ chức tại Tbilisi vào năm 1977 đã đưa ra khái niệm: “Giáo dục môi trường có mục đích làm cho cá nhân và các cộng đồng hiểu được bản chất phức tạp của môi trường tự nhiên và môi trường nhân tạo là kết quả tương tác của nhiều nhân tố sinh học, lý học, xã hội, kinh tế và văn hóa; đem lại cho họ kiến thức, nhận thức về giá trị, thái độ và kỹ năng thực hành để họ tham gia một cách có trách nhiệm và hiệu quả trong phòng ngừa và giải quyết các vấn đề môi trường và quản lý chất lượng môi trường”. - Hiểu biết bản chất của các vấn đề môi trường: tính phức tạp, quan hệ nhiều mặt, nhiều chiều, tính hạn chế của tài nguyên thiên nhiên và khả năng chịu tải của môi trường, mối quan hệ chặt chẽ giữa môi trường và phát triển, giữa môi trường địa phương, vùng, quốc gia với môi trường khu vực và toàn cầu. Mục tiêu này thực chất là trang bị cho các đối tượng được giáo dục các Kiến thức về môi trường. - Nhận thức được ý nghĩa, tầm quan trọng của các vấn đề môi trường như một nguồn lực để sinh sống, lao động và phát triển, đối với bản thân họ cũng như đối với cộng đồng, quốc gia của họ và quốc tế, từ đó có thái độ, cách ứng xử đúng đắn trước các vấn đề môi trường, xây dựng cho mình quan niệm đúng đắn về ý thức trách nhiệm, về giá trị nhân cách để dần hình thành các kỹ năng thu thập số liệu và phát triển sự đánh giá thẩm mỹ. Mục tiêu này có định hướng xây dựng Thái độ, cách đối xử thân thiện với môi trường. - Có tri thức, kỹ năng, phương pháp hành động để nâng cao năng lực trong việc lựa chọn phong cách sống thích hợp với việc sử dụng một cách hợp nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và sinh vật (Điều 3, Luật Bảo vệ môi trường, 2005). Môi trường sống của con người bao gồm môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Môi trường tự nhiên bao gồm các yếu tố thiên nhiên như vật lí, hoá học, sinh học...tồn tại ngoài ý muốn của con người. Môi trường xã hội là tổng hoà các mối quan hệ giữa con người với con người. Đó là các luật lệ, thể chế, quy định.nhằm hướng các hoạt động của con người theo một khuôn khổ nhất định, tạo thuận lợi cho sự phát triển cuộc sống của con người. Theo Luật bảo vệ môi trường Việt Nam: “Ô nhiễm môi trường là sự làm thay đối tính chất của môi trường, vi phạm tiêu chuẩn môi trường'’”. Ô nhiễm môi trường bao gồm ba loại chính là: Ô nhiễm đất, ô nhiễm nước và ô nhiễm không khí. Vậy làm thế nào mọi người có trách nhiệm và cùng vào cuộc với các biện pháp để kiềm hãm sự gia tăng về ô nhiễm môi trường để bảo vệ cuộc sống là vấn đề quan trọng. Đối với học sinh tiểu học các em được sống trong môi trường quen thuộc đó là nhà trường với thầy cô, bạn bè, lớp học, sân chơi , vườn trường, thư viện...và gia đình với ông bà, cha mẹ, hàng xóm, cây đa, giếng nước, mái đình...Việc giáo dục BVMT ở tiểu học có vị trí quan trọng bởi lẽ : Thông qua giáo dục bảo vệ môi trường các em biết được chức năng đặc biệt quan trọng của môi trường đối với đời sống như: Không gian sống của con người Lưu trữ và cung cấp các nguồn thông tin Chức năng của môi trường - Môi trường cung cấp không gian sống cho con người. - Cung cấp các nguồn tài nguyên cần thiết phục vụ cho đời sống và sản xuất của con người. - Cách tiếp cận cơ bản của giáo dục môi trường là: Giáo dục về môi trường, trong môi trường và vì môi trường. - Phương pháp GDMT nhằm tạo cơ hội cho HS phát hiện và tìm cách giải quyết các vấn đề môi trường dưới sự hướng dẫn của GV. 3. CƠ SỞ THỰC TIỄN: Việc giáo dục bảo vệ môi trường cho học sinh từ thực tế tình hình nhà trường, thông qua các môn học và hoạt động GDNGLL nhằm trang bị cho các em những nhận thức, những kỹ năng, hành vi và có thái độ ứng xử phù hợp với môi trường, cùng với việc giáo dục các em chúng tôi muốn gửi những thông điệp quan trọng về môi trường và bảo vệ môi trường trong thời điểm hiện nay đến với các bậc phụ huynh và toàn xã hội. Hiện nay, việc giáo dục BVMT cho học sinh như thế nào là hiệu quả và phù hợp với tình hình địa phương, của trường là vấn đề đặt ra đối với tôi. Phường Hoà Hương nằm ở vùng ven của thành phố Tam Kỳ. Nơi đây đa số nguồi dân sống bằng nghề nông, lao động phổ thông như thợ mộc, thợ nề, thợ rèn, làm thuê và buôn bán nhỏ lẻ xung quanh khu vực chợ, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn. Cơ sở hạ tầng, đường sá, cầu cống, hệ thống xử lý nước, rác thải chưa được đầu tư đúng mức. Công tác bảo vệ môi trường là vấn đề chưa được người dân quan tâm. Chẳng hạn một số hộ dân sinh sống, buôn bán gần khu vực trường thường xuyên tập trung rác thải trên trục đường Thanh Hóa, trước cổng trường (lợi dụng công tác thu gom của Công ty môi trường đối với nhà trường); chăn nuôi trâu bò thả rông, chăn dắt vào trong khu vực sân trường làm hư hại các bồn cỏ, gây mất vệ sinh.. .Tất cả những thực trạng trên đều tác động xấu và làm ô nhiễm môi trường. Đối với trường Tiểu học Lê Thị Hồng Gấm thuộc phường Hoà Hương. Trong những năm qua, được sự quan tâm của các cấp , cùng với sự nỗ lực của lãnh đạo nhà trường, trường từng bước được đầu tư xây dựng , các điều kiện về CSVC phục vụ cho công tác giáo dục toàn diện; công tác xây dựng quang cảnh xanh-sạch - đẹp được đội ngũ chú trọng. Tuy nhiên, công tác giáo dục BVMT trong điều kiện tình hình thực tế của nhà trường và qua các môn học là vấn đề chưa được giáo viên quan tâm thường xuyên . Trong dạy học giáo viên bám chặt vào các yêu cầu của chuẩn kiến thức kỹ năng, việc tích hợp giáo dục BVMT là vấn đề giáo viên vẫn còn băn khoăn, e dè, sợ đi lệch mục tiêu bài dạy. Hơn nữa, việc tích hợp giáo dục BVMT ở các bài có nội dung cần tích hợp theo phương thức trực tiếp như mônTiếng Việt hoặc nội dung tích hợp ở mức độ toàn phần như môn Đạo đức, đòi hỏi người giáo viên phải có những thông tin đầy đủ về môi trường liên quan đến nội dung bài dạy để tích hợp vào bài học đảm bảo tự nhiên, nhẹ nhàng không làm thay đổi đặc trưng của môn học. Đối với học sinh tiểu học, các em được lĩnh hội kiến thức về môi trường và BVMT qua các môn học về mặt lý thuyết còn mờ nhạt; các hoạt động lao động vệ sinh trường lớp, chăm sóc bồn hoa cây cảnh, giữ vệ sinh lớp học. đều được các em tham gia dưới sự tổ chức hướng dẫn của giáo viên theo kế hoạch của nhà trường chứ các em chưa thực sự có được ý thức tự giác công tác giáo dục, bởi lẽ CSVC trường học là hệ thống các phương tiện vật chất và kỹ thuật cần thiết phục vụ cho hoạt động giáo dục, dạy-học của giáo viên và học sinh nhằm đạt được mục tiêu đề ra. CSVC kỹ thuật trường học có vai trò rất quan trọng; là yếu tố tác động trực tiếp đến quá trình giáo dục, góp phần quyết định chất lượng của nhà trường. Trường học xanh, sạch, đẹp sẽ tạo ra một môi trường học tập, sinh hoạt và vui chơi, an toàn, thú vị, hấp dẫn đối với các em, giúp các em càng thêm yêu quý trường lớp, thầy cô, bạn bè. Trường học xanh sạch đẹp và thân thiện sẽ để lại những dấu ấn tốt đẹp trong các mối quan hệ : thầy với trò; thầy với thầy; thầy với cha mẹ học sinh; thầy với địa phương và rộng hơn tạo ra mối quan hệ với toàn xã hội. Trường học xanh, sạch, đẹp còn có ý nghĩa giáo dục mỗi học sinh ý thức, thói quen giữ gìn và bảo vệ môi trường. Để thực hiện được nhiệm vụ trên, trong những năm học qua, tôi đa xây dựng kế họach phát triển chiến lược của nhà trường phù hợp với tình hình trường và đị a phương. Theo từng giai đoạn, cùng với việc đầu tư xây dựng đội ngũ, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, tôi đã tích cức tham mưu với Uỷ ban nhân dân (UBND) phường Hoà Hương, phòng Giáo dục và Đào tạo, UBND thành phố Tam Kỳ đầu tư xây dựng khối phòng học và khối phòng phục vụ học tập kiên cố, các công trình phục vụ việc học tập, sinh hoạt của giáo viên và học sinh như : Nhà đa năng, các công trình vệ sinh, nhà xe, sân chơi bãi tập; cải tạo sắp xếp khu hiệu bộ , nhà ăn nhà bếp... từng bước hoàn thiện các điều kiện CSVC nhà trường theo các tiêu chí của tiêu chuẩn 3 về CSVC đáp ứng yêu cầu dạy, học và giáo dục; phấn đấu xây dựng trường đạt chuẩn Quốc gia mức II trong năm học đến. Với những nỗ lực của bản thân, sự quan tâm của các cấp quản lý và sự vào cuộc của đội ngũ các điều kiện về CSVC của trường được đầu tư đáp ứng các yêu cầu tổ chức dạy -học. Đối với việc xây dựng trường lớp xanh, sạch, đẹp, an toàn, tôi tiếp tục thực hiện Chỉ thị 40/2008/CT-BGDĐT về việc thực hiện phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện học sinh tích cực”. Cùng với việc tổ chức thực hiện 5 nội dung, trong đó chú trọng phát động trong đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên, học sinh và huy động phụ huynh cùng tham gia xây dựng trường lớp xanh , sạch, đẹp theo các tiêu chí: - Tiêu chí xanh: + Vận động phụ huynh đỗ đất nâng cao nền sân trường, quy hoạch thảm cỏ, trồng thêm cây xanh có bóng mát, bố trí trồng cây xanh phù hợp với vị trí trong sân trường. + Trồng thêm các loại hoa, cây cảnh trong sân trường tạo ra một không gian mát mẻ, phong phú các loài cây và hoa. + Mỗi lớp được phân công nhận một bồn hoa trước lớp để trồng và chăm sóc, các lớp học được trang trí có cây xanh. - Tiêu chí sạch:
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_vai_bien_phap_chi_dao_viec_giao_du.docx
Sáng kiến kinh nghiệm Một vài biện pháp chỉ đạo việc giáo dục bảo vệ môi trường cho học sinh tại Trư.pdf