Sáng kiến kinh nghiệm Một số vấn đề về phương pháp giảng dạy tích hợp đối với môn Ngữ văn

docx 23 trang skquanly 25/04/2025 290
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số vấn đề về phương pháp giảng dạy tích hợp đối với môn Ngữ văn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số vấn đề về phương pháp giảng dạy tích hợp đối với môn Ngữ văn

Sáng kiến kinh nghiệm Một số vấn đề về phương pháp giảng dạy tích hợp đối với môn Ngữ văn
 UBND QUẬN HOÀNG MAI
 TRƯỜNG THCS THỊNH LIỆT
 Đề Bài: Một số vấn đề về phương pháp giảng dạy tích hợp
 đối với môn Ngữ văn
A. ĐẶT VẤN ĐỀ:
 Giảng dạy tích hợp đối với Ngữ văn là một trong những nhiệm vụ trọng tâm đối 
VỚI chương trình và sách giáo khoa lần này là: Đổi mới phương pháp dạy và học. Trong 
chương trình Ngữ văn THCS tích hợp 3 phân môn: Văn - Tiếng Việt - Tập làm văn lần 
này có tác dụng tạo mối hên kết khăng khít VỚI nhau,và giảng dạy tích hợp giữa các 
môn học với nhau có vai trò vô cùng quan trọng trong dạy và học. Vì vậy việc giảng dạy 
theo hướng tích họp có tác dụng lớn đối VỚI học sinh trong việc hấp thụ kiến thức cấu 
trúc sách giáo khoa Ngữ văn THCS cho thấy sự nhấn mạnh những điểm đồng quy về 
kiến thức, kĩ năng giữa 3 phân môn để thực hiện quan điểm tích hợp. vấn đề tích hợp các 
bộ môn trong quá trình giảng dạy là một điểm cần lưu ý.
1. Lý do chọn đề tài:
 Năm học 2017-2018 là năm thứ tám thực hiện chương trình thay sách giáo khoa và 
được triển khai đại trà trên toàn quốc. Trong bổi cảnh ngành Giáo dục và Đào tạo đang 
nỗ lực đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực chủ động sáng 
tạo của học sinh. Phương pháp dạy học được coi là cách thức hoạt động của giáo viên 
khi tố chức các hoạt động học tập, nhằm giúp học smh đạt được các mục tiêu dạy học, 
để thực hiện công cuộc đổi mới giáo dục đòi hỏi phải có sự đầu tư quan tâm thích đáng 
từ nhiều mặt. Chương trình ngữ văn của THCS được xây dựng theo nguyên tắc tích hợp. 
Theo chương trình này, ba phân môn: Văn - Tiếng Việt và Tập làm văn được thống nhất 
lại thành một môn học, gọi là môn Ngữ vãn. Coi trọng tính thực hành, sách giáo khoa 
Ngữ Văn đã tập trung theo hướng phát huy tính chủ động sáng tạo của học sinh trong 
học tập, trong đó phần Tiếng Việt và lí thuyết Tập làm văn đã được coi trọng. Qua thực 
tế giảng dạy, tôi đã nhận thức rõ: Tiếng Việt là phân môn nền tảng, là công cụ giao tiếp 
quan trọng trong đời sống và là cơ sở cho các môn học trong hệ thống trường phố thông. 
Từ sự vận dụng Tiếng Việt trong việc lý giải vẻ đẹp và hiệu quả của nghệ thuật ngôn từ 
trong tác phẩm văn học, trong Tập Làm Vàn và giao tiếp hằng ngày. Học sinh sẽ tự nâng 
cao các tri thức Tiếng Việt và Văn học để tạo lập các kiểu văn bản nói và văn bản viết. 
Như vậy sản phẩm của Tập Làm Vàn là căn cứ cơ bản đê đánh giá kết quả việc học Tiếng 
Việt và Văn học của học sinh để hướng tới kỳ năng cơ bản: đọc, nói, viết mà chương 
trình đã đặt ra. Chính từ việc nhận thức được tầm quan trọng như trên, tôi xin đóng góp 
một vài ý kiến về việc giảng dạy tích họp đối với môn Ngữ văn nên tôi đã chọn nghiên cứu đề tài “ Một số vấn đề về phương pháp giảng dạy tích hợp 
đổi với mân Ngữ văn
2. Cơ sở lí luận.
 Đổi mới phương pháp dạy học là phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học 
sinh. Đổi mới phương pháp tích hợp: giáo viên đứng lóp cần phải biết thực hiện yêu cầu 
tích hợp, linh hoạt sáng tạo, suy ngẫm về mục tiêu của bộ môn Ngữ văn, tìm ra yếu tố 
đồng quy giữa 3 phân môn tích hợp trong từng thời điểm, từng vấn đề. Quan điểm tích 
hợp phải quán triệt trong mọi khâu để đánh giá. -I Đề tài: “Một số vấn về phương pháp 
giảng dạy tích họp đổi với Ngữ văn ” -'Tiếng Việt -Tập làm văn lần này có tác dụng tạo 
mối hên kết khăng khít VỚI nhau. Vì vậy việc giảng dạy theo hướng tích hợp có tác dụng 
lớn đối với học sinh trong việc hấp thụ kiến thức cấu trúc sách giáo khoa Ngữ văn THCS 
cho thấy sự nhan mạnh những điểm đồng quy về kiến thức, kĩ năng giữa 3 phân môn để 
thực hiện quan điểm tích hợp. Yếu tố đồng quy này chính là ngôn ngữ trong văn bản của 
mỗi bài. Ngôn ngữ cần được hiếu theo nghĩa rộng không chi bao gồm ngữ âm, từ vựng, 
cú pháp mà còn là kiểu văn bản, các quy tắc ngôn ngữ, các quy tắc tổ chức không gian, 
thời gian của văn bản. Như vậy đối VỚI chương trình sách giáo khoa mới phải tận dụng 
những kiến thức, kĩ năng giải mã và sản sinh văn bản và ngược lại vận dụng những kiến 
thức kĩ năng giải mã để củng cố và phát triển những kiến thức, kĩ năng Tiếng Việt cấu 
trúc này cho thấy sự quan tâm phát huy năng lực tích cực, chủ động, và sáng tạo của học 
sinh trong học tập Ngữ văn. Thông qua việc cung cấp kiến thức Văn - Tiếng Việt - Tập 
làm văn hình thành và phát triển cho học sinh cách tiếp nhận, cách tạo lập các loại hình 
vãn bản, cách giải quyết và vận dụng những kiến thức và kĩ năng Văn - Tiếng Việt vào 
thực tiễn cuộc sống một cách năng động và sáng tạo. Phải phát huy tối đa tính tích hợp 
chủ động sáng tạo của học sinh. Vì học sinh là chủ thể học tập trong mọi khâu: Từ việc 
chuẩn bị bài, sưu tập tài liệu, phát biếu trong tổ, nhóm, đánh giá mình, đánh giá bạn... 
Đỗi mới việc giảng dạy tích hợp Ngữ văn : Tích hợp theo chiều dọc là tích hợp ở một 
đơn vị kiến thức và kĩ năng mới, những kiến thức và kĩ năng đã học trước đó theo nguyên 
tắc đồng trục ( còn gọi là vòng tròn đồng tâm) hay vòng tròn xoáy trôn ốc. Cụ thể là kiến 
thức và kĩ năng hình thành ở bài học, lóp học bài học sau bao hàm kiến thức, kĩ năng, 
bậc học trước nhưng cao hơn, sâu hơn trước. Tích hợp theo chiều dọc là dựa trên nguyên 
tắc đồng trục càng nên cao thì yêu cầu nội dung càng cao, kiến thức lớp trên, bậc trên 
cao hơn kiến thức bậc dưới, lớp dưới. Tích hợp theo chiều ngang: Tích hợp kiến thức 
Tiếng Việt VỚI các mảng kiến thức về Vàn học và Tập làm văn. Việc lựa chọn nội dung: 
Ngữ văn chọn các kiểu thành phần câu như: Thành phần biệt lập, khối ngữ nghĩa tường 
minh, hàm ý ... phục vụ cho việc tạo lập các văn bản b. Em hãy cho biết mối quan hệ giữa Tiếng Việt, Văn, Tập làm văn?
 Bảng 2:
 Lớp Tổng số Kêt quả
 học sinh Đạt yêu cầu Không đạt yêu cầu
 •
 Số lượng % Số lượng %
 6A 41 28 68,2 13 31,8
 8D 35 25 71,4 10 28,6
 9A 39 29 74,4 10 25,6
7. Phương pháp nghiên cứu: Thông qua từng cụm bài giáo viên xây dựng hệ thống câu 
hỏi để lồng ghép những kiến thức tích hợp từng phân môn vào cụm bài chung. * Thao tác 2: Tìm mối liên hệ giữa bài đang học với những bài trước đó để tìm điểm 
đồng quy để giáo viên có định hướng tích hợp (ngang hay dọc; củng cố hay hé mở)
Ví dụ: - BÀN VỀ ĐỌC SÁCH (bài 18 - Ngữ văn 9). - Tiếng Việt: Khởi ngữ - Tập làm 
văn: Phép phân tích và tổng hợp, Luyện tập phép phân tích tổng họp. Điểm đồng quy của 
3 phân môn này: Văn bản “là một văn bản nghị luận. Vãn bân này đưa ra để làm mẫu 
cho học sinh học tập cách làm vãn nghị luận. Trong văn bản có nhiều nhiều câu văn chứa 
khởi ngữ. Còn về Tập làm văn, khi dạy bài phép phân tích tổng hợp, giáo viên đưa ngay 
văn bản “Bàn về đọc sách” để phân tích mẫu về văn nghị luận. Như vậy văn bản “Bàn 
về đọc sách” sẽ được SOI sáng ở cả 3 góc độ của 3 phân môn và các phân môn đó đều 
có mối quan hệ với nhau.
* Thao tác 3: Xây dựng hệ thống câu hỏi tích hợp. Dựa trên thao tác 1, giáo viên bắt 
đầu thiết ke bài dạy và hệ thong câu hỏi. Trong SGK câu hỏi có tính chất định hướng, 
hướng dẫn học sinh tìm hiểu những kiến thức và kĩ năng cơ bản trong bài học. Câu hỏi 
cũng rất đa dạng: Câu hỏi nêu vấn đề, câu hỏi hướng dẫn hoạt động, câu hỏi gợi mở, câu 
hỏi thảo luận... Nhưng đó chỉ là những câu hỏi có tính chất “tĩnh” còn câu hỏi trong mỗi 
giờ học “động” mang đậm dấu ấn cá nhân của giáo viên trong nhận thức cũng như truyền 
tải nội dung bài học đến VỚI học sinh. Câu hỏi tích hợp được xây dựng trên cơ sở: Căn 
cứ vào điểm đồng quy giữa 3 phân môn, khi dạy phần văn học giáo viên có nhiệm vụ hé 
mở những nội dung nào đó của Tiếng Việt và Tập làm văn để học sinh chuẩn bị tâm thế 
tốt cho bài học. Lưu ý các chú thích ở Vãn bản của mỗi thể loại học sinh nắm vững và 
nhớ đặc điểm của từng thể loại. Ngoài ra còn lưu ý đến các chú thích khác để hiểu văn 
bản. Đồng thời hiểu nghĩa của các từ (cấu tạo từ, nghĩa của từ, các từ loại, các thành phần 
câu...) sẽ được học ở phần Tiếng Việt.
* Ví dụ: Bài 20 (Ngữ văn 9) - Văn bản: Chuẩn bị hành trang vào the kỉ mới. - Tiếng 
Việt: Các thành phần biệt lập (Tiếp). - Tập làm văn: + Bài viết số 5: Văn nghị luận. + 
Nghị luận một vấn đề tư tưởng, đạo lý.
a, Khi dạy vãn bản “Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới” giáo viên cần khai thác nội 
dung bằng cách xây dựng những câu hỏi tích hợp sau:
Hỏi: Em hãy xác định the loại và phương thức biếu đạt cho vãn bản ?
Hỏi: Vấn đề nêu ra trong bài nghị luận này là gì ?
Hỏi: Vấn đe này được trình bày bằng hệ thống luận cứ ?
Hỏi: Em có nhận xét gì về cách xây dựng hệ thống luận cứ và cách lập luận của bài văn 
?
Hỏi: Qua bài vàn, em học tập được gì về cách viết văn nghị luận của tác giả ?
b, Khi dạy Tiếng Việt: Các thành phần biệt lập (tiếp). Trong phần luyện tập có một 
đoạn văn ở trong văn bản “Chuẩn bị hành trình vào thế kỉ mới”; “Bước vào the kỉ mới, 
muốn sánh vai cùng các cường quốc năm châu. Nhận ra điều đó quen Hỏi: Dựa vào các sự việc trên em hãy tóm tắt truyện ? Như vậy: Trong cụm bài 4, cả 3 
phân môn đều có kiến thức tích hợp hên quan đến nhau. Khi khai thác giáo viên cần 
hướng học sinh chú ý đến những kiến thức tích hợp này để học smh nắm vững, sâu kiến 
thức cần ghi nhớ. Giáo viên kết luận: Vậy ta có thể nói rằng tích hợp được thể hiện trong 
mọi khâu:
- Kiểm tra bài cũ.
- Quá trình soạn bài, giảng bài.
- Đánh giá kiểm tra bài cũ, tiếp nhận kiến thức mới.
• Phần Tiếng Việt: “Cách dẫn trực tiếp và gián tiếp” Khi dạy bài này giáo viên lấy ví 
dụ là 1 đoạn văn bản được trích trong văn bản “Chuyện người con gái Nam Xương”. Ta 
có thế chọn đoạn văn trích dẫn lời trực tiếp, đó là lời của Vũ Nương khi than khóc VỚI 
chồng bị oan: “ Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu. Sum họp chưa thoả tình 
chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt 3 năm giữ gìn một tiết.” Giáo viên 
có thể đặt câu hỏi:
Hỏi: Đoạn văn có trong văn bản nào ?
Hỏi: Đoạn văn trích dãn lời nói của ai ?
Hỏi: LỜI trích dẫn đó là lời trích dẫn trực tiếp hay gián tiếp ?
Hỏi: Em hãy tóm tat cổt truyện ?
Hỏi: Truyện được xây dựng dựa trên những tình tiết nào ?
Như vậy: Phần văn bản đã đưa ra một số câu hỏi để hướng học sinh khai thác nội dung 
bài học có liên quan đến phần Tập làm văn. Chuẩn bị bài ở nhà. Tuy nhiên chương trình 
cũng khẳng định quan điểm tích hợp ở nước ta hiện chưa thể áp dụng một cách triệt để, 
giảng dạy theo quan điểm tích hợp không phủ định việc dạy các tri thức, kĩ năng riêng 
của từng phân môn. vấn đề là làm thế nào để phối hợp một cách hợp lí các tri thức, kĩ 
năng riêng rẽ của từng phân môn tới mục tiêu chung của Ngữ văn. Tích hợp phải hợp lí, 
lôgic với bài dạy không nên tích hợp gò ép, xơ cứng, thô bạo khiến bài dạy vụn vặt. Tích 
hợp mà không làm mất đi đặc trưng của phân môn mà còn có tác dụng làm cho kiến thức 
được xoáy sâu, nhuần nhuyễn. Xác định, lựa chọn, sắp xếp sử dụng câu hỏi tích hợp sao 
cho phù hợp với nội dung bài học và đối tượng học sinh mà không tách xa khỏi hình 
thức.
* Ket quả: Gan tám năm thực hiện chương trình thay sách giao khoa mới, tôi đã nhận 
thấy rằng việc vận dụng phương pháp giảng dạy tích hợp là việc cần thiết đối với giáo 
viên giảng dạy Ngữ văn. Vận dụng được phương pháp này, phát huy được trí thông minh 
của học sinh. Học sinh tiếp nhận kiến thức một cách dễ dàng và rất sâu. Vì kiến thức 
được lồng ghép cả 3 phân môn trong từng cụm bài.
- về phía giáo viên:
+ Không còn lúng túng khi soạn bài.
+ Bài giảng logic, chặt chẽ, họp lí nhờ biết xác định điểm đồng quy. - Giáo dục lòng tự hào về truyền thống ngoại xâm kiên cường của cha ông
 - Học sinh cần có năng lực vận dụng những kiến thức liên môn: Lịch sử, Ngữ văn, 
Tự nhiên, xã hội.... để giải quyết các vấn đề dự án dạy học đặt ra.
3. Đối tượng dạy học của dự án
a. ĐÔI tượng dạy học của dự án là học sinh bậc THCS:
 + Số lượng: 39 em
 + Số lớp thực hiện: 1
 + Khối lớp: 9A
b. Đặc điểm của học smh dạy học theo dự án:
* Thuận ỉợi:
+ Dự án mà tôi thực hiện là một tiết học ngữ văn 9, đồng thời là giáo viên giảng dạy luôn 
VỚI học sinh lớp 9 nên có nhiều thuận lợi trong quá trình thực hiện.
+ Các em học sinh lớp 9 là học sinh cuối cấp nên đã quen với phương pháp tiếp cận và 
khai thác các kiến thức từ các văn bản văn học.Học sinh không còn bờ ngỡ, lạ lẫm trước 
những đổi mới về phương pháp mà các thầy cô giáo đã áp dụng trong quá trình giảng 
dạy.
* Khó khăn:
 + Đa phần học sinh học môn văn nhưng lực học của các em không đồng đều.
 + Khả năng tư duy, độc lập, sáng tạo của học sinh còn hạn chế.
4. Ý nghĩa của dự án
 Qua quá trình dạy học nói chung và thực tế giảng dạy bộ môn Ngữ văn nói riêng, 
tôi thấy rằng việc kết hợp kiến thức cùa các môn học vào để giải quyết một vấn đề, một 
tình huống nào đó trong một môn học là việc làm hết sức cần thiết. Điều đó đòi hỏi người 
giáo viên bộ môn không chỉ nắm chắc kiến thức môn mình giảng dạy mà còn phải không 
ngừng trau dồi kiến thức của các môn học khác để tổ chức, hướng dẫn các em giải quyết 
các tình huống, các vấn đề đặt ra trong môn học một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất.
 Hơn nữa, tôi thấy rằng “Tích hợp” là một khái niệm được sử dụng trong nhiều lĩnh 
vực khác nhau. Đặc biệt trong giáo dục, cụ thể là trong giảng dạy, tích hợp kiến thức của 
nhiều môn học vào giải quyết các vấn đề trong một môn học sẽ giúp học smh hiểu rộng 
hơn, sâu hơn về vấn đề đặt ra trong môn học đó.
 Tích hợp trong giảng dạy sẽ giúp học sinh phát huy được khả năng suy nghĩ, tìm tòi, 
tư duy sáng tạo trong học tập và ứng dụng vào thực tế đời sống. Chính vỉ thế, tôi mạnh 
dạn trình bày và thực hiện thử nghiệm một dự án nhỏ đối với học sinh lớp 9 VỚI chủ đề: 
“Hoàng Lê nhất thống chí” ở bộ môn Ngữ văn lớp 9.
 Trong quá trình soạn bài thực tế, tôi nhận thấy nếu có kết hợp các kiến thức của 
các môn học khác vào bài soạn sẽ giúp giáo viên tiếp cận tốt hơn, hiểu rõ hơn, sâu hơn 
những vấn đề đặt ra. Từ đó tổ chức hướng dẫn học sinh sẽ linh

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_van_de_ve_phuong_phap_giang_day.docx
  • pdfSáng kiến kinh nghiệm Một số vấn đề về phương pháp giảng dạy tích hợp đối với môn Ngữ văn.pdf