Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm xây dựng môi trường giáo dục thân thiện cho tập thể lớp có đông học sinh nữ
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm xây dựng môi trường giáo dục thân thiện cho tập thể lớp có đông học sinh nữ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm xây dựng môi trường giáo dục thân thiện cho tập thể lớp có đông học sinh nữ

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BGH Ban giám hiệu CLB Câu lạc bộ GD Giáo dục GVCN Giáo viên chủ nhiệm HS Học sinh MXH Mạng xã hội SHL Sinh hoạt lớp THPT Trung học phổ thông TNST Trải nghiệm sáng tạo 1 V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: 1. Phương pháp nghiên cứu về lí luận: Thu thập và đọc các tài liệu về lý luận, các văn bản pháp qui về vị trí, vai trò, chức năng, phẩm chất cần có, nhưng năng lực sư phạm cần thiết của người làm công tác chủ nhiệm lớp. Từ đó phân tích và tổng hợp các vấn đề lý luận liên quan đến SKKN. 2 . Phương pháp nghiên cứu thực tiễn : - Phương pháp thống kê. - Phương pháp khảo sát, quan sát. - Phương pháp điều tra. - Phương pháp so sánh, đối chiếu. - Phương pháp phân tích, tổng hợp. - Phương pháp thực nghiệm sư phạm. VI . NHỮNG ĐIỂM MỚI VÀ ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI: Trong quá trình tìm hiểu để viết đề tài sáng kiến kinh nghiệm “Một số kinh nghiệm xây dựng môi trường giáo dục thân thiện cho tập thể lớp có đông học sinh nữ”, tôi nhận thấy đề tài này chưa có tác giả nào đề cập đến một cách toàn diện với đối tượng học sinh Trung học phổ thông. Cũng có tác giả đề cập đến nhưng còn sơ sài, các giải pháp cụ thể còn chưa đầy đủ. Đề tài “Một số kinh nghiệm xây dựng môi trường giáo dục thân thiện cho tập thể lớp có đông học sinh nữ’’ do chúng tôi thực hiện bên cạnh những kinh nghiệm những giải pháp để quản lý lớp chủ nhiệm còn nêu lên được những cách thức cần thiết để tạo sự gắn kết giữa các thành viên trong tập thể đông học sinh nữ để cho các em cảm nhận được “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui” từ đó thúc đẩy ý chí phấn đấu học tập rèn luyện của bản thân để đạt được thành tích cao trong học tập, trở thành những công dân tốt cho xã hội. Từ kinh nghiệm làm công tác chủ nhiệm nhiều năm cùng với sự tìm tòi học hỏi và mạnh dạn áp dụng phương pháp giáo dục tích cực của bản thân chúng tôi đã đúc rút kinh nghiệm, liên kết và xâu chuỗi thành hệ thống để các giáo viên chủ nhiệm tham khảo và có thể áp dụng không chỉ với lớp học của tôi mà của cả các bạn đồng nghiệp để tạo được một môi trường GD thân thiện, lan tỏa đến mỗi em học sinh thân yêu của chúng ta. Hy vọng đề tài này của chúng tôi sẽ đóng góp một phần nhỏ để nâng tầm công tác giáo dục của chúng ta, phù hợp trong giai đoạn hiện nay, như Nghị quyết Đại hội Đảng XIII đã chỉ rõ và yêu cầu ngành GD-ĐT. 3 hàm sự công bằng, dân chủ về pháp lý và sự yêu thương, chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau. Trường học thân thiện là nơi đảm bảo cho học sinh học tập trong điều kiện an toàn về cơ sở vậy chất; tài liệu, học liệu sử dụng để giảng dạy phù hợp với mục tiêu, chương trình giáo dục, đảm bảo tính khoa học, chính xác... Hơn nữa, trường học thân thiện còn là nơi có sự “thân thiện” trong tập thể sư phạm với nhau, giữa học sinh với học sinh; người giáo viên phải tận tâm giảng dạy, công tâm trong quan hệ ứng xử, phải coi trọng việc giáo dục bình đẳng giới để học sinh nam và học sinh nữ biết quý trọng nhau, sống hòa đồng với nhau. Trường học thân thiện còn là nơi đảm bảo giữ gìn môi trường xanh – sạch – đẹp phù hợp với yêu cầu giáo dục. Như vậy, trường học thân thiện là trường học đảm bảo được sự an toàn, bình đẳng, tạo hứng thú cho học sinh học tập, góp phần đảm bảo quyền và nghĩa vụ học tập của học sinh, nâng cao chất lượng giáo dục của trường học ( học tập trong môi trường học tập thân thiện học sinh sẽ được tham gia các hoạt động vui chơi, giải trí, văn hóa, nghệ thuật, thể dục, thể thao phù hợp với lứa tuổi và đặc điểm tâm sinh lý...). 2.2 Tập thể lớp đông học sinh nữ là gì? a. Tập thể: Tập thể là một cộng đồng xã hội đặc biệt, là hình thái tổ chức xã hội tập hợp những người có cùng mục đích, có hoạt động chung, có tổ chức chặt chẽ và hệ thống quan hệ phụ thuộc giữa các thành viên. Những dấu hiệu cơ bản của một tập thể là tính thống nhất về mục đích và tính có tổ chức trong quá trình thực hiện các công việc chung. b. Tập thể lớp và tập thể lớp có đông học sinh nữ: - Khái niệm: Tập thể lớp là một hình thái tổ chức của học sinh, một tổ chức giáo dục có kỉ luật chặt chẽ, có nguyên tắc hoạt động nhất định được hình thành thông qua sự phân chia dựa trên các tiêu chí như độ tuổi, trình độ, các diện chính sách được ưu tiên theo quy định của pháp luật có chức năng tổ chức, tập hợp, giáo dục học sinh nhằm thực hiện mục đích giáo dục. - Tập thể lớp có các đặc trưng sau đây: + Có mục đích chung: tập thể lớp thống nhất với các học sinh trong lớp trong việc cùng nhau thực hiện những mục đích chung có ý nghĩa cho mỗi cá nhân và xã hội. Đó là mục đích học tập, tích lũy kiến thức, lao động, rèn luyện, trau dồi phẩm chất đạo đức, học hỏi, giúp đỡ lẫn nhau, tích cực chuẩn bị đầy đủ năng lực và phẩm chất để tham gia vào cuộc sống, vào quá trình lao động xã hội. + Có hoạt động chung: mục đích của tập thể lớp được thực hiện thông qua các hoạt động chung của các thành viên trong tập thể lớp như: hoạt động học tập, hoạt đọng lao động, hoạt động xã hội – công ích, hoạt động văn hóa – thể thao, hoạt động vui chơi – giải trí Tuy nhiên, những hoạt động này đòi hỏi phải phù hợp với tâm lý lứa tuổi, trình độ nhận thức, vốn sống, vốn kinh nghiệm và điều kiện học tập, sinh hoạt của số đông học sinh trong tập thể. 5 + Tham gia tìm hiểu, chăm sóc và phát huy giá trị các di tích lịch sử, văn hóa, cách mạng ở điạ phương. Việc xây dựng môi trường học tập thân thiện cần có sự chung tay của nhà trường, cha mẹ học sinh và đặc biết là vai trò của học sinh từ trong tập thể nhỏ đến tập thể lớn hơn. Từ đó học sinh sẽ có động lực tích cực vào mỗi buổi đi học của mình, có như vậy thì chất lượng giáo dục mới được nâng cao hơn. 2.4. Đặc điểm của tập thể lớp đông HS nữ. * Ưu điểm: - Tích cực tham gia các phong trào thi đua học tập và văn nghệ của trường và lớp (khéo tay hay làm, chăm chỉ). - Giữ môi trường lớp học luôn xanh sạch đẹp (yêu thích sự gọn gàng, sạch đẹp, khác với các bạn nam, các bạn nữ thường không tham gia vào các hoạt động vui chơi mạnh, đòi hỏi phải vận động mạnh như: bóng đá, bóng rổ,bóng chuyền,...). - Có thể học tốt các môn KHXH (văn, anh, giáo dục công dân, sử, địa): có thiên hướng về ghi nhớ hơn các bạn nam (tư duy), chăm chỉ siêng năng, lời nói ngôn từ phong phú, đa dạng. - Tình cảm, gắn bó với nhau (thích thể hiện tình cảm, chăm sóc nhau). - Tự tin về bản thân mình hơn (không bị áp lực về khả năng tiếp thu kiến thức tự nhiên của các bạn nam. Trái lại, nếu tập thể lớp ít nam sinh hơn nữ sinh thì nam sinh cũng không bị ảnh hưởng nhiều bởi kiến thức xã hội có thể dễ dàng nắm bắt tốt vì gần gũi với thực tế đời sống hằng ngày). - Tập trung vào việc học tốt hơn (không cần phải gây ấn tượng với các bạn khác giới). - Dễ dàng đồng điệu về tâm hồn, thấu hiểu, chia sẻ vs nhau giúp nhau hoàn thiện bản thân: con gái thường dễ bộc lộ và bày tỏ cảm xúc của mình. Nếu một người bạn trong lớp mình gặp chuyện khó khăn cần giúp đỡ, thì những bạn còn lại sẵn sàng tâm sự, chia sẻ và đưa ra nhưng lời khuyên, lời an ủi chân thành nhất để giúp bạn vượt qua. - Linh hoạt trong tổ chức các sự kiện của lớp, các hoạt động ngoại khóa của lớp, của trường (sáng tạo, khéo léo, dễ dàng nắm bắt những yêu cầu, những khâu tổ chức cần thiết cho một sự kiện, buổi lễ, bữa tiệc của lớp). * Nhược điểm: - Gặp khó khăn trong những hoạt động, lao động nặng nhọc. - Thi thoảng có những bất về đồng về quan điểm dẫn đến xích mích. - Chạy theo phong trào ( ăn diện đẹp, làm đẹp) -> lơ là việc học. - Không có lợi thế về các môn KHTN. 7 thường được thay đổi luân phiên để sau một cấp học, các em có thể được huấn luyện tự quản nhiều lần từ đơn giản đến phức tạp. GVCN là người giúp học sinh tự tổ chức các hoạt động đã được kế hoạch hóa. Điều đó không có nghĩa là khoán trắng, đứng ngoài hoạt động của tập thể học sinh lớp học mà nên cùng hoạt động, điều chỉnh hoạt động kịp thời giúp các em tháo gỡ những khó khăn trong quá trình hoạt động, tranh thủ các lực lượng trong và ngoài nhà trường, tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh của lớp tổ chức hoạt động. - Chức năng thứ ba: GVCN là cầu nối giữa tập thể học sinh với các tổ chức xã hội trong và ngoài nhà trường, là người tổ chức phối hợp các lực lượng giáo dục: + GVCN có trách nhiệm truyền đạt đầy đủ nghị quyết, tư tưởng chỉ đạo của Ban giám hiệu tới học sinh lớp chủ nhiệm với phương pháp thuyết phục, thái độ nghiêm túc để mỗi học sinh và tập thể lớp ý thức đầy đủ trách nhiệm phải tuân thủ, tự giác thực hiện. + GVCN là người đại diện cho quyền lợi chính đáng của học sinh trong lớp, bảo vệ học sinh về mọi mặt một cách hợp lí, phản ánh với Hiệu trưởng, các giáo viên bộ môn, gia đình và đoàn thể trong và ngoài nhà trường về nguyện vọng chính đáng của học sinh. - Chức năng thứ tư của GVCN là đánh giá khách quan kết quả rèn luyện của mỗi học sinh và phong trào chung của lớp. Chức năng này có ý nghĩa cực kì quan trọng đối với quá trình học tập, rèn luyện, phát triển nhân cách của mỗi học sinh vì sự đánh giá khách quan, chính xác, đúng mức là một điều kiện để thầy trò điều chỉnh mục tiêu, kế hoạch, hoạt động cho cả lớp và mỗi thành viên. Trên đây là một số chức năng chủ yếu của GVCN ở trường THPT trong giáo dục học sinh. Để thực hiện tốt các chức năng trên, GVCN cần có những nhiệm vụ cụ thể, có những yêu cầu nhất định. 5. Nhiệm vụ và những năng lực sư phạm cần thiết của GVCN lớp : 5.1. Nắm vững mục tiêu giáo dục của cấp học, lớp học và chương trình dạy học, giáo dục của trường. Đây là nhiệm vụ trước mắt, cần thiết vì chỉ trên cơ sở nắm vững mục tiêu cấp học, nhiệm vụ năm học của Bộ và chương trình hoạt động và dạy học của trường thì mới có cơ sở để xây dựng kế hoạch hoạt động của lớp chủ nhiệm, có khả năng thực thi và đảm bảo hiệu quả giáo dục. Ở mỗi trường đều có các văn bản cần thiết sau đây: + Mục tiêu cấp học. + Chỉ thị từng năm học – thực chất đó là nhiệm vụ trọng tâm hàng năm. + Chương trình giảng dạy các môn hộc. 9 GVCN là người có ảnh hưởng sâu sắc nhất tới học sinh lớp chủ nhiệm vì giữa GVCN với học sinh một lớp thiết lập được mối quan hệ thường xuyên, quan hệ tình cảm đặc biệt thân thiết trong hoạt động. Nhiều GVCN được học sinh vừa coi như người thầy – người hướng đạo (người dắt lối chỉ đường) cho các em vào đời, đồng thời vừa coi là người thân như anh (chị) cha (mẹ), đan xen trong đó cả tình bạn gần gũi, tâm tình. + Chỉ có thể trở thành một GVCN tốt khi GVCN thực sự là một tấm gương mẫu mực trong cuộc sống, giải quyết tốt các mối quan hệ không chỉ đối với học sinh lớp chủ nhiệm mà còn đối với gia đình, đồng nghiệp (với các giáo viên trong trường), với mọi người ở cộng đồng nơi ở và toàn xã hội. GVCN phải là một hình ảnh mẫu mực của một công dân đối với nhiệm vụ được xã hội, nhà trường giao phó, tôn trọng các quy định của pháp luật. Có thể thấy mọi cử chỉ, cách ăn mặc, nói năng, đi đứng, thái độ biểu hiện của người GVCN đối với mọi hiện tượng xã hội lúc có mặt hay không có mặt học sinh đều có ảnh hưởng đến nhân cách học sinh lớp chủ nhiệm. + GVCN có trách nhiệm theo dõi tình hình thời sự, chính trị trong và ngoài nước nhằm hoàn thiện nhân cách, góp phần thực hiện công tác GVCN. Muốn tổ chức tốt hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, GVCN không thể không đặt cho bản thân nhiệm vụ làm phong phú sự hiểu biết về chính trị xã hội. Hiện nay không ít GVCN coi nhẹ nhiệm vụ này, hoặc thực hiện theo hứng thú, nhu cầu của bản thân chứ không xuất phát từ yêu cầu của công tác chủ nhiệm lớp. Vì vậy việc thu thập thông tin chưa thành hệ thống, chưa toàn diện và GVCN cũng chưa ý thức thật đầy đủ về việc cung cấp và định hướng cho học sinh xử lý các thông tin kịp thời, chính xác, có hiệu quả giáo dục. Do đặc điểm tâm sinh lí, do vốn sống của trẻ còn hạn chế, do tính đa dạng, phong phú, phức tạp của sự giáo dục vì bùng nổ thông tin thời đại mở cửa và hội nhập mà nhiệm vụ nắm bắt thông tin, định hướng cho học sinh là một nhiệm vụ rất quan trong đối với GVCN trong giai đoạn hiện nay và đây cũng là nhiệm vụ được nhấn mạnh. Có ý kiến cho rằng đó là nhiệm vụ của tất cả thầy cô giáo các cấp học, điều đó hoàn toàn đúng nhưng nó đặc biệt quan trọng đối với những GVCN lớp ở trường phổ thông. Việc hoàn thiện nhân cách người GVCN trong thời kì hiện nay, được thể hiện chính ở sự làm phong phú nhận thức xã hội của bản thân để thực hiện công tác giáo dục học sinh lớp chủ nhiệm. 5.5. Một trong những nhiệm vụ quan trọng của GVCN lớp là không ngừng học tập chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm, nhằm đổi mới công tác tổ chức giáo dục, dạy học, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện ở nhà trường phổ thông. Đội ngũ thầy cô giáo nói chung và GVCN lớp nói riêng cần được bồi dưỡng thường xuyên về một số nội dung sau đây: + Những tri thức mới và khả năng vận dụng tri thức khoa học đang giảng dạy vào cuộc sống. 11
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_kinh_nghiem_xay_dung_moi_truong.docx