Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp nhằm giảm tỷ lệ học sinh bỏ học tại trường THCS Võ Thị Sáu
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp nhằm giảm tỷ lệ học sinh bỏ học tại trường THCS Võ Thị Sáu", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp nhằm giảm tỷ lệ học sinh bỏ học tại trường THCS Võ Thị Sáu
PHẦN I: MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Giáo dục là một hoạt động xã hội rộng lớn có liên quan trực tiếp đến nghĩa vụ, quyền hạn của mỗi người dân, mọi tổ chức kinh tế - xã hội; đồng thời có tác động mạnh mẽ đến quá trình phát triển của mỗi Quốc gia. Nhận thức được điều đó, các Quốc gia trên thế giới luôn quan tâm đến quản lý giáo dục, trong đó chất lượng của đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục được xem là yếu tố quan trọng. Cán bộ quản lý phải là người tận tâm với công việc, có tinh thần trách nhiệm cao trong mọi hoạt động của cơ quan đơn vị. Đặc biệt hơn, nếu là người cán bộ quản lý trong Ngành giáo dục thì ngoài trách nhiệm hàng ngày của người quản lý cần có lòng vị tha, yêu nghề mến trẻ, phải biết phối hợp tốt với các cơ quan đơn vị đóng trên địa bàn trường, Ban đại diện cha mẹ học sinh, hội khuyến học, các nhà hảo tâm, chính quyền địa phương để làm tốt công tác phổ cập giáo dục tại địa phương cũng như vấn đề chế độ chính sách ưu tiên cho học sinh có nguy cơ bỏ học trong diện học sinh nghèo, học sinh có hoàn cảnh khó khăn. Đồng thời thực hiện tốt phong trào thi đua “ Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” và làm sao cho học sinh thấy được “ Mỗi ngày đến trường là một niềm vui” . Thêm vào đó, trách nhiệm của nhà trường không chỉ thuần túy “dạy chữ” mà hơn thế phải kết hợp đồng thuận cùng gia đình và xã hội “dạy người”. Với phương châm “Học để tiếp thu kiến thức và học để làm người có ích cho xã hội”, tôi luôn trăn trở: làm cách nào để tất cả các em học sinh đều được đến trường, được hưởng đặc quyền cơ bản là “học”. Bởi những em học sinh bất cứ vì nguyên nhân gì phải hoặc tự loại mình ra khỏi quyền lợi được học hành sẽ đều là gánh nặng cho xã hội. Thay vì thời gian ngồi trên ghế nhà trường, tham gia học tập, rèn luyện đạo đức, sinh hoạt tập thể hữu ích, những học sinh này sẽ lang thang cơ nhỡ không có một tương lai tốt đẹp hoặc tiêu cực hơn, khi các em chưa đủ khả năng phân biệt được tốt – xấu sẽ dễ bị lôi kéo, hư hỏng và sa vào con đường tội lỗi. Tuổi trẻ là tương lai của nước nhà, vì thế, sự quan tâm, hỗ trợ, giúp các em hiểu được vai trò của việc học, cố gắng vượt lên hoàn cảnh để học tập nghiêm túc, đều đặn sẽ đào tạo ra những công dân tốt, những người tài cho đất nước mai sau. Theo thống kê của Phòng Giáo dục đào tạo số 1284/PGD&ĐT-THCS ngày 29 tháng 9 năm 2011 về việc huy động học sinh bỏ học trong hè năm 2011 ra lớp, Thành phố Nha Trang có 308 học sinh bỏ học trong hè. Trước tình trạng đó phòng Giáo Dục và Đào tạo thành phố Nha Trang đã có những động thái tích cực yêu cầu các trường vào cuộc để khắc phục tình trạng học sinh bỏ học để làm tốt công tác vận động học sinh ra lớp, duy trì công tác phổ cập trung học cơ sở (THCS). Bản thân tôi là một cán bộ quản lý thuộc Phòng Giáo dục và Đào tạo thành phố Nha Trang cũng có những suy nghĩ làm thế nào để duy trì sĩ số, giảm thiểu và đi đến xóa bỏ tình trạng học sinh nghỉ, bỏ học giữa chừng? Muốn vậy đầu tiên phải làm tốt công tác vận động học sinh bỏ học ra lớp và tiếp tục tham gia học tập. Vận động học sinh ra lớp không phải đến thời điểm này Ngành Giáo dục thành phố Nha Trang nói riêng và Ngành giáo dục nói chung mới thực hiện, mà đã có từ nhiều năm trước đây, nhưng việc vận động chỉ dừng lại ở những cách: Gíao viên chủ nhiệm lớp, Ban giám hiệu kết hợp với tổ dân phố, chính quyền địa phương vận động bằng những lời khuyên: “Đi học để lấy cái bằng tốt nghiệp THCS để sau này có công ăn việc làm.”. Những biện pháp trên chỉ có tác dụng tạm thời trong một thời gian ngắn rồi tình trạng học sinh bỏ học vẫn diễn ra. Do đó, để duy trì tốt sĩ số, vận động học sinh bỏ học ra lớp có hiệu quả trước hết chúng ta phải tìm hiểu kỹ nguyên nhân học sinh bỏ học và từ đó tìm ra biện pháp, hướng cho các em hiểu rõ tầm quan trọng của việc học chữ. Qua thực tế tìm hiểu và vận động học sinh bỏ học ra lớp tại trường THCS Võ Thị Sáu bản thân tôi mạnh 1 Tìm ra các nguyên nhân chính, xác thực về tình trạng học sinh bỏ học từ những năm trước. Lập số liệu so sánh, xác định nơi nào có tỷ lệ học sinh bỏ học nhiều để có các giải pháp khắc phục thích hợp. 6. Phương pháp nghiên cứu: Ngay từ đầu năm chỉ đạo các bộ phận liên quan tiến hành thống kê những học sinh lưu ban, thi lại năm học trước nhưng có khả năng bỏ học giữa chừng, những học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, cá biệt, những học sinh thuộc diện tạm trú, giải tỏa; Cập nhật thông tin về tình hình đi học của học sinh, tỷ lệ chuyên cần hàng ngày để có các giải pháp vận động một cách kịp thời. Phối hợp cùng tổ dân phố, các tổ chức đoàn thể và chính quyền địa phương có biện pháp vận động học sinh bỏ học ra lớp. Thông qua các buổi sinh hoạt hội đồng, sinh hoạt chủ nhiệm nhằm nắm bắt kịp thời các thông tin có liên quan tới việc chuyên cần của học sinh. 7.Thời gian nghiên cứu: Để đạt được kết quả cao, đảm bảo tỷ lệ chuyên cần, duy trì sĩ số theo đúng sự chỉ đạo chung của Ngành thì cần được tiến hành liên tục trong nhiều năm. Tuy nhiên do thực tế thời gian không cho phép nên đề tài chỉ áp dụng được trong thời gian năm học 2011 – 2012, bắt đầu từ tháng 8/2011 đến nay. PHẦN II: NỘI DUNG I. Cơ sở pháp lý: Căn cứ vào khoản 3 điều 58 về quyền hạn và nhiệm vụ của nhà trường trong luật giáo dục số 38/2005/QH XI ngày 14/6/2005 đã nêu: Nhà trường có trách nhiệm tuyển sinh và quản lý người học. Nhà trường chịu sự lãnh đạo trực tiếp của địa phương ghi tại điều 9 trách nhiệm quản lý nhà nước về giáo dục của UBND cấp xã theo nghị định số 166/2004/NĐ-CP ngày 16/9/2004 của chính phủ qui định trách nhiệm quản lý nhà nước về giáo dục. Căn cứ vào khoản 5 điều 3 thông tư 12/2011/TT-BGDĐT ban hành điều lệ trường THCS, THPT và PT nhiều cấp học năm 2011: Phối hợp với gia đình học sinh, tổ chức và cá nhân trong hoạt động giáo dục. Xuất phát từ mục e khoản 1 điều 19 điều lệ trường THCS, THPT và PT nhiều cấp học năm 2011 nhiệm vụ và quyền hạn của Hiệu trưởng. Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã khẳng định: “Phát triển giáo dục là sự nghiệp của toàn xã hội, của nhà nước và của mỗi cộng đồng, của từng gia đình và của mỗi công dân”. Điều 12 Luật giáo dục đã ghi: “Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong phát triển sự nghiệp giáo dục, thực hiện đa dạng hóa các loại hình trường và hình thức giáo dục, khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tham gia phát triển giáo dục. Mọi tổ chức gia đình và công dân điều có trách nhiệm chăm lo cho sự nghiệp giáo dục, phối hợp với nhà trường thực hiện mục tiêu giáo dục, xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh và an toàn”. Chỉ thị số 3399/CT-BGDĐT về nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục thường xuyên và giáo dục chuyên nghiệp năm học 2011-2012 cũng đã nêu: “Đẩy mạnh thực hiện xã hội hóa giáo dục, tăng cường huy động các nguồn lực để phát triển giáo dục”. II. Cơ sở lý luận: 3 Trường có tổ chức công đoàn, chi đoàn giáo viên, liên đội, đặc biệt có một chi bộ độc lập. Trường có: 26 lớp: 926 học sinh Nữ: 437 trong đó: + Khối 6 có 7 lớp: 277 học sinh – nữ 129 + Khối 7 có 6 lớp: 203 học sinh – nữ 99 + Khối 8 có 6 lớp: 192 học sinh – nữ 89 + Khối 9 có 7 lớp: 254 học sinh – nữ 120 2. Thuận lợi: Trường có chi bộ nhiều năm đạt chi bộ trong sạch vững mạnh, luôn quan tâm chỉ đạo và thực hiện tốt công tác phổ cập THCS. Được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của các cấp lãnh đạo, sự nhiệt tình ủng hộ của Đảng ủy, UBND hai phường Vĩnh Trường và Phước Long; sự lãnh đạo sát sao của phòng Gíao dục. Đội ngũ giáo viên có trình độ chuyên môn vững vàng, có nhiều kinh nghiệm trong giảng dạy, đoàn kết thương yêu giúp đỡ nhau trong mọi công tác, phần lớn yêu nghề mến trẻ, nhiệt tình trong mọi công tác được giao. Đặc biệt hơn là đội ngũ giáo viên chủ nhiệm nhiệt tình, có tinh thần trách nhiệm cao, luôn tâm huyết với nghề nghiệp, luôn coi học sinh như con đẻ của mình. Ban giám hiệu, Ban chấp hành công đoàn luôn quán triệt trong hội đồng giáo dục quan điểm “Một hội đồng hai nhiệm vụ” nên giáo viên đa số có ý thức trách nhiệm tốt trong vấn đề duy trì sĩ số, nâng cao chất lượng giáo dục để làm tốt công tác phổ cập giáo dục. Ban đại diện cha mẹ học sinh, Hội khuyến học hoạt động tích cực, phối hợp chặt chẽ cùng nhà trường và có nhiều chế độ, chính sách khuyến học trong vấn đề vận động học sinh ra lớp. Bản thân có trình độ chuyên môn vững vàng, có ý thức trách nhiệm cao, sẵn sàng giúp đỡ học sinh có hoàn cảnh khó khăn, học sinh nghèo. 3. Khó khăn: Cơ vở vật chất nhà trường xuống cấp trầm trọng ảnh hưởng nhiều đến việc tổ chức các hoạt động dạy và học, vui chơi giải trí, tạo sân chơi lành mạnh thu hút học sinh, đặc biệt đối với những học sinh có hoàn cảnh khó khăn: học sinh nghèo, mồ côi cha mẹ không nơi nương tựa, cha mẹ ly dị hoặc ly thân, học sinh học yếu, kém , lười học, ham chơi, có nguy cơ bỏ học cao. Đời sống của nhân dân địa phương, đặc biệt là các gia đình phường Vĩnh Trường còn gặp nhiều khó khăn (chủ yếu đi biển, kinh tế bấp bênh), phụ huynh chưa ý thức được vai trò của việc học nên công tác giáo dục cho con em chưa được chú trọng thường xuyên. Số học sinh theo cha mẹ làm ăn xa và chuyển trường đột xuất gây khó khăn cho công tác duy trì sĩ số nhà trường. Một số ít bộ phận nhân dân còn rất mơ hồ với việc giáo dục con em họ, cho rằng giáo dục học sinh là nhiệm vụ và trách nhiệm hoàn toàn thuộc về nhà trường, nên gia đình chưa có sự quan tâm đầu tư đúng mức cho việc học tập của con em mình, họ không hiểu học cho ai và học để làm gì. Học sinh đi học với suy nghĩ nghĩa vụ hơn là tự giác nên hiện tượng nghỉ học, bỏ học giữa chừng thường xuyên diễn ra. Các yếu tố về tuổi đời, tuổi nghề, hệ đào tạo, hoàn cảnh gia đình cũng tác động trực tiếp đến trình độ của giáo viên. Việc phấn đấu vươn lên của một vài giáo viên vẫn còn chậm chạp, dẫn đến chất lượng giờ dạy thấp, chưa lôi cuốn được học sinh thích học. Từ đó bản thân tôi đã xác định được một số nguyên nhân cơ bản dẫn tới học sinh bỏ học: 4. Nguyên nhân cơ bản dẫn tới học sinh bỏ học: 5 thân, học sinh mồ côi cả cha lẫn mẹ không nơi nương tựa phải sống ở các nhà tình thương: Hướng dương, Hoa Mai với học sinh toàn trường nhằm động viên, khuyến khích tạo điều kiện cho các em học tập “những tấm gương hiếu học, vượt khó”. Cô tổ trưởng tổ 3 – Trường Hải Phường Cô Hiệu trưởng phát thưởng cho HS nghèo Vĩnh Trường tặng quà khuyến học cho hai vượt khó và hoàn thành xuất sắc công tác Đội học sinh tàn tật Trong ngày hội, nhà trường còn tổ chức nhiều hoạt động khác nhau như: bài phát biểu của tấm gương vượt khó học tập của học sinh; nghe mẩu chuyện hay trong “tập truyện lớn” bày tỏ tâm sự của thầy cô giáo trong quá trình giảng dạy; nghe nói chuyện về công tác vận động học sinh ra lớp của tổ trưởng tổ dân phố như cô: Nguyễn Thị Hoa - Tổ trưởng tổ dân phố trường Hải, chú Đoàn Văn Phương - Tổ trưởng tổ dân phố Trường Thọ phường Vĩnh Trường là những cán bộ có tâm huyết về vấn đề vận động học sinh ra lớp cùng nhà trường làm tốt công tác phổ cập THCS. Đặc biệt trong “ngày hội đọc”, các em học sinh còn chứng kiến buổi phỏng vấn dành cho 2 em học sinh tàn tật vẫn hăng say tham gia học tập Bà Lê Thị Hiền – Chủ tịch Phường Vĩnh Trường tặng Cô Tổng phụ trách phỏngvấn hai học sinh quà cho giáo viên và học sinh kể chuyện về những ký khuyết tật ức của giáo viên và học sinh hay nhất 1.2. Tích cực xây dựng đội ngũ nhà giáo thực sự có tinh thần yêu nghề, mến trẻ tận tụy với công việc: Tôi ý thức được rằng: chính lòng yêu nghề, mến trẻ, yêu công việc sẽ giúp đội ngũ giáo viên mà đặc biệt là giáo viên chủ nhiệm quan tâm nhiều hơn cho công tác của mình, trong đó có công tác góp phần duy trì sĩ số. Vì vậy, với cương vị người quản lý, thực hiện lời dạy của Chủ Tịch Hồ Chí Minh, các cuộc họp hội đồng, tôi luôn nhắc nhở mỗi cán bộ, 7
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_giai_phap_nham_giam_ty_le_hoc_s.doc

