Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn nề nếp cho trẻ 24-26 tháng tuổi

docx 16 trang skquanly 28/06/2025 120
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn nề nếp cho trẻ 24-26 tháng tuổi", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn nề nếp cho trẻ 24-26 tháng tuổi

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn nề nếp cho trẻ 24-26 tháng tuổi
 PHẦN THỨ NHẤT: ĐẶT VẤN ĐỀ
 1. Lý do chọn đề tài
 Trẻ em là tương lai của đất nước, của dân tộc. Đảng và nhà nước ta luôn coi 
trọng công tác chăm sóc giáo dục trẻ em.
 Bác Hồ kính yêu đã từng nói:
 Trẻ em như búp trên cành
 Biết ăn, biết ngủ biết học hành là ngoan.
 Đúng như vậy trẻ em như một cây non. Cây non được sự chăm sóc của người 
lớn thì cây sẽ lên tốt, dạy trẻ tốt thì sau này trẻ sẽ thành người tốt. Chính vì vậy 
ngành học mầm non luôn coi trọng việc chăm sóc giáo dục trẻ, đây là một nhiệm 
vụ vô cùng quan trọng đặt nền tảng cho sự nghiệp giáo dục chung.
 Muốn thực hiện được nhiệm vụ to lớn này thì gia đình là sợi dậy tình yêu, 
chăm sóc và kích thích đầu tiên của trẻ, cha mẹ là những người thầy đầu tiên và 
quan trọng nhất. Cô giáo mầm non, người mẹ thứ hai của trẻ thì phải làm sao hình 
thành cho các cháu bước đầu có đức tính tốt để sau này trở thành người công dân 
tốt.
 Mỗi một trẻ với một tính cách khác nhau. Nhưng tất cả các trẻ đều có quyền 
được yêu thương, sự quan tâm và đáp ứng nhu cầu của bản thân. Để trẻ bộc lộ 
được năng lực tiềm ẩn, trẻ cần có một môi trường cho phép chúng được học tập 
mọi lúc, mọi nơi, học theo nhiều cách khác nhau. Để nuôi dưỡng trí thông minh 
là chăm sóc bảo vệ và kích thích trẻ trong qua trình sinh trưởng. Người giáo viên 
cần định hướng làm sao để hình thành cho trẻ bước đầu có một đức tính tốt để sau 
này trở thành công dân tốt.
 Tôi là một người giáo viên mầm non được phân công phụ trách ở độ tuổi 24 
-36 tháng. Trẻ đang còn rất bé, dễ bị tổn thương về tâm lý vì lứa tuổi này do đặc 
điểm sinh lý trẻ phát triển mạnh, tôi thấy việc giáo dục đưa trẻ vào nề nếp để tham 
gia mọi hoạt động trong ngày của trẻ là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong 
suốt quá trình của trẻ. Vì trẻ chưa tách rời bố mẹ, gia đình nên khi mới hòa nhập 
lớp, nhập trường trẻ còn có thái độ sợ hãi, mọi thứ đều lạ lẫm, tránh né bạn, không 
chấp nhận sự giúp đỡ của cô giáo, thậm chí còn la khóc, không ăn không ngủ, 
hoặc không tham gia vào mọi hoạt động, có thể dường như không hòa nhập vào 
tập thể. 3
Phương pháp thực hành luyện tập 
Phương pháp trò chơi 
Phương pháp lồng ghép tích hợp 
6. Phạm vi và kế hoạch nghiên cứu
Tại trường mầm non Phú Cường nơi tôi đang công tác.
Từ tháng 9/2022 đến tháng 4/2023 5
 Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy lớp nhà trẻ 24 - 36 tháng tuổi, ngay từ 
đầu năm học khi trẻ đến lớp thì các cháu hoàn toàn lạ lẫm, sợ hãi. Trẻ đang được 
sống trong môi trường được gia đình, bố mẹ yêu thương chăm sóc. Khi đến trường 
là nơi hoàn toàn mới mẻ và xa lạ với trẻ. Vì vậy trẻ chư quen với nề nếp, thói quen 
của lớp trẻ còn khóc nhiều, cô giáo cần rất nhiều thời gian để dỗ dành. Khi đến 
lớp cháu chưa có thói quen chào hỏi, cô giáo đưa đồ thì không xin, không biết vứt 
rác vào nơi quy định, thường xuyên tranh dành đồ chơi với bạn. Vì vậy tôi thấy 
mình cần cho trẻ một thói quen, một nề nếp tốt để giúp có khả năng tự phục vụ 
bản thân và tôi nguyện sẽ quyết tâm đưa trẻ vào học có nề nếp tốt trong năm học 
này.
 Chính vì vậy tôi suy nghĩ và tìm hiểu “Một số biện pháp rèn nề nếp cho 
trẻ 24 - 36 tháng tuổi”, để nhanh chóng đưa trẻ vào nề nếp, thói quen từ những 
ngay đầu. Tôi tâm nguyện sẽ đem hết khả năng và kinh nghiệm của mình để phục 
vụ các con.
 3. Khảo sát thực trạng
 Năm học 2022 – 2023 tôi được nhà trường phân công dạy lớp nhà trẻ 24-
 36 tháng tuổi với tổng số là 20 cháu, trong đó 10 cháu nam, 10 cháu nữ. 
 Lớp có 3 cô giáo đều đạt trình độ trên chuẩn.
 3.1. Thuận lợi
 Giáo viên đứng lớp có trình độ trên chuẩn, nắm chắc phương pháp, có nhiều 
 sáng tạo trong giảng dạy.
 Được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của các cấp lãnh đạo, ban giám hiệu nhà 
 trường, tổ chuyên môn đã tạo mọi điều kiện để tôi thực hiện tốt nhiệm vụ của năm 
 học. 
 Được tham gia học chuyên đề do ngành tổ chức, học bồi dưỡng thường 
 xuyên và học hỏi đồng nghiệp để nâng cao kiến thức và năng lực chuyên môn. 
 Đa số các bậc phụ huynh đều nhiệt tình ủng hộ các hoạt động của nhà trường 
và quan tâm đến các cháu.
 3.2. Khó khăn
 Ở độ tuổi 24-36 tháng tuổi cơ thể của trẻ còn non nớt, trẻ dễ bị ảnh hưởng 
 bởi những thay đổi do thời tiết nên các cháu đi học chưa thường xuyên, hay bị 7
bạn, trẻ quấy khóc và không muốn đến lớp. Vì tuổi này trẻ còn rất bé, sống nhiều 
về tình cảm nên rất cần sự âu yếm, nhẹ nhàng của cô nhất là những ngày đầu trẻ 
mới nhập lớp. Cô phải làm sao để trẻ có thể cảm nhận được sự an toàn, được quan 
tâm và được yêu mến có thể coi là một thành viên trong cộng đồng mà trẻ đang 
hòa nhập. Tôi phải dỗ dành yêu thương, vỗ về trẻ. Luôn tạo cho trẻ cảm giác an 
toàn khi ở bên cô và các bạn. Giúp trẻ thích đến lớp, hòa đồng cùng cô và các bạn.
 Minh chứng 2: Hình ảnh cô giáo dỗ dành trẻ khóc
 Ví dụ: Ở giờ đón trẻ: Những ngày đầu tiên trẻ còn bỡ ngỡ thậm chí khóc 
hờn, cô đón trẻ từ tay gia đình, cô âu yếm vỗ về rồi cho xem tranh và trò chuyện 
hoặc hát cho trẻ nghe rồi kể truyện, cô cùng trẻ chơi với các đồ chơi để trẻ quên 
đi lỗi nhớ nhà.
 Minh chứng 3: Hình ảnh cô giáo trò chuyện với trẻ
 Ví dụ: Ở giờ ăn, ngủ: Những ngày đầu trẻ ăn ngủ tại trường với trẻ điều gì 
cũng mới mẻ cô giáo ân cần dỗ dành, động viên khuyến khích xúc từng thìa cơm 
cho trẻ và du trẻ vào giấc ngủ. Dần dần trẻ đã quen khi đến giờ ăn cô hướng dẫn 
trẻ tự ngồi vào bàn ăn, tập cho trẻ tự cầm thìa xúc cơm ăn, ăn không nói chuyện, 
không làm rơi vãi.
 Ví dụ: Ở giờ trả trẻ: Có nhiều trẻ gia đình đến đón muộn hơn các bạn khác 
trẻ thấy bạn được đón mà mình chưa có ai đón, lúc đó trẻ sẽ tủi thân và mếu máo 
khóc, cô trò chuyện, cho trẻ chơi một số trò chơi để trẻ vui vẻ chờ gia đình đến 
đón.
 5.2. Biện pháp 2: Rèn nề nếp trẻ thông qua giờ đón trả trẻ
 * Giờ đón trẻ
 Những ngày đầu khi đón trẻ vào lớp, trẻ còn bỡ ngỡ sợ hãi và khóc lóc. Trẻ 
chưa quen với môi trường mới có cô giáo và các bạn. Khi đón các con vào lớp tôi 
luôn âu yếm, dỗ dành để trẻ thấy được sự quan tâm, tình yêu thương của cô giáo. 
Khi trẻ đã quen với môi trường mới tôi sẽ tạo cho trẻ những nề nếp, thói quen 
như: dạy trẻ khoanh tay chào cô, chào mẹ, chào các bạn, cất đồ dùng cá nhân đúng 
nơi quy định từ đó hình thành thói quen cho trẻ mỗi khi vào lớp.
 Minh chứng 4: Hình ảnh cô giáo đón trẻ
 Ví dụ: Khi ông bà, bố mẹ đưa trẻ đến lớp phụ huynh nhắc nhở con chào cô 
giáo, trẻ chỉ nói “chào cô”, lúc đó tôi nhắc trẻ ngay “con ơi con chào các cô đi”, 9
 Ví dụ: Ném bóng vào rổ, đánh gôn, ném vòng. Thông qua các trò chơi rèn 
cho trẻ ý thức kỷ luật nề nếp trong khi chơi.
 Minh chứng 9: Hình ảnh trẻ chơi ở góc vận động
 Ở hoạt động bé chơi với đồ vật, trẻ rất thích thú, trẻ được thỏa mãn nhu cầu 
vui chơi khi được tham gia các trò chơi: 
 Ví dụ: Trò chơi Câu cá, xâu vòng, lăn chai Qua đó hình thành cho trẻ các 
thói quen như: Ngồi ngoan trong khi chơi, không tranh giành đồ chơi với bạn.
 Minh chứng 10: Hình ảnh trẻ hoạt động với đồ vật
 Ngoài ra ở các góc khác như: Góc kỹ năng, góc bé bế em. Trẻ được mô 
phỏng lại những hoạt động hàng ngày của người lớn. Từ đó hình thành cho trẻ 
những kỹ năng đơn giản tự phục vụ bản thân.
 Minh chứng 11: Hình ảnh trẻ chơi ở góc kỹ năng, góc bế em
 5.3.2. Hoạt động ngoài trời.
 Khi hoạt động ngoài trời là lúc trẻ hay chạy lung tung tự do nếu cô không 
có sự bao quát tốt với trẻ. Nên ngay từ những buổi đầu tôi đã rèn trẻ khi giờ hoạt 
động ngoài trời phải xếp hàng theo sự hướng dẫn của cô giáo. 
 Minh chứng 12: Hình ảnh trẻ hoạt động ngoài trời
 Để hình thành cho trẻ thói quen hoạt động tập thể ngoài trời, biết đoàn kết 
với các bạn trong khi chơi tôi cho trẻ chơi những trò chơi.
 Ví dụ: Trò chơi Nu na nu nống, Chi chi chành chành, bóng tròn to
 Minh chứng 13: Hình ảnh cô và trẻ chơi trò chơi “Nu na nu nống”
 Bên cạnh đó để rèn cho trẻ biết giữ gìn vệ sinh môi trường tôi tổ chức cho 
trẻ tham gia hoạt động như: Nhặt lá ở sân trường, dạy trẻ vứt rác đúng nơi quy 
định.
 Minh chứng 14: Hình ảnh cô và trẻ nhặt lá ở sân trường
 5.4. Biện pháp 4: Rèn nề nếp trẻ thông qua hoạt động có chủ đích
 Trong các tiết học tôi luôn thay đổi các hình thức dạy để gây hứng thú cho 
trẻ, khuyến khích động viên trẻ mạnh dạn tự tin để tham gia vào hoạt động. Cô 
giáo là người dẫn dắt trẻ hoạt động. Từ đó trẻ hứng thú và tích cực hoạt động hơn, 
nhanh nhẹn hoạt bát, rèn luyện sự tự giác. Phát triển năng lực giúp trẻ học đạt hiệu 11
 Đối với độ tuổi này để đưa các cháu vào nề nếp thói quen không phải là 
chuyện dễ và đơn giản. Thực tế các cháu còn rất bé, chưa có ý thức được như các 
anh chị mẫu giáo, điều này cũng là 1 thử thách cho cô giáo ở lứa tuổi này. Muốn 
tạo cho trẻ có được thói quen thường xuyên phải luôn nhẹ nhàng gần gũi tình cảm 
với trẻ để uốn nắn trẻ hoặc thông qua bài hát, bài thơ, câu chuyện, trò chơicó 
nội dung nói về nề nếp thói quen tôi có thể sử dụng để phần nào liên hệ tới bản 
thân mà ngoan hơn và biết vâng lời cô giáo. Nhờ tạo sự điều kiện giúp đỡ của cô 
trẻ được uốn nắn kịp thời thường xuyên, liên tục do đó việc rèn luyện nề nếp thói 
quen của trẻ trong mọi hoạt động mọi lúc mọi nơi mang lại hiệu quả cao hơn các 
cháu ngoan có nề nếp hơn.
 Giờ ăn, ngủ, vệ sinh với trẻ nhà trẻ là rất khó khăn. Đa số trẻ chưa biết đi vệ 
sinh đúng nơi quy định. Giờ ăn cô giáo phải động viên, dỗ dành, giúp đỡ để hình 
thành thói quen cho các con: Ăn hết suất, không làm rơi vãi cơm ra ngoài. 
 Minh chứng 18: Hình ảnh cô giáo xúc cơm cho trẻ
 Để hình thành cho trẻ thói quen giữ vệ sinh khi ăn, ngồi phải ngay ngắn, 
không nói chuyện, không làm cơm rơi. Phải có thói quen lịch sự trong ăn uống.
 Ví dụ: Khi ăn tôi thường xuyên nhắc nhở trẻ khi ho hoặc hắt hơi phải biết 
che miệng, không nhai nhồm nhoàm, ăn xong trẻ tự cất bát thìa vào nơi qui định.
 Minh chứng 19: Hình ảnh trẻ xếp hàng đi vệ sinh
 Ví dụ: Hay giúp trẻ có ý thức hơn trong giờ ăn trước khi ăn cơm cô cho trẻ 
đọc bài thơ: “Giờ ăn”
 Đến giờ ăn cơm
 Vào bàn bạn nhé
 Nào thìa bát đĩa
 Xúc cho gọn gàng
 Chớ có vội vàng
 Cơm rơi, cơm vãi.
 Đến giờ ngủ tôi phải thường xuyên vỗ về, an ủi để trẻ có một giấc ngủ ngon. 
Và rèn cho trẻ thói quen ngủ đúng giờ.
 Minh chứng 20: Hình ảnh cô vỗ về trẻ ngủ
 Ví dụ: Những ngày đầu khi trẻ mới đến lớp trẻ còn sợ hãi không muốn ngủ, 
tôi phải dỗ giành, vỗ về, bế trẻ để trẻ có thể ngủ được. Khi trẻ đã quen với cô và 13
rèn luyện thói quen nề nếp của trẻ theo khoa học và đi đến thống nhất trong việc 
chăm sóc giáo dục trẻ.
 Minh chứng 21: Hình ảnh cô giáo trao đổi với phụ huynh
 Ví dụ: Giáo dục lễ giáo cho trẻ: yêu cầu trẻ biết vâng lời người lớn, biết chào 
hỏi, biết lễ phép, Ở trường cô giáo sẽ theo dõi và giáo dục nhắc nhở trẻ thực 
hiện; tuy nhiên ở nhà gia đình cũng phải có trách nhiệm theo dõi và nhắc nhở con 
thực hiện: đi có biết chào, hỏi người lớn không? Khách đến nhà có biết chào 
không?; biết nhận lỗi khi làm điều gì sai không? Có sự đồng hành giáo dục giữa 
nhà trường và gia đình ngay từ đầu năm sẽ tạo điều kiện tốt cho việc rèn luyện 
thói quen thực hiện tốt nền nếp ở trẻ.
 Minh chứng 22: Hình ảnh cô giáo trao đổi với phụ huynh qua bảng 
 tuyên truyền
 Tôi còn trao đổi với phụ huynh thông qua các hình thức:
 Qua giờ đón trả, trẻ. 
 Các thông tin trên bảng tuyên truyên.
 Nhắn tin qua Zalo nhóm lớp, có một số phụ huynh tôi sẽ nhắn tin riêng hay 
trao đổi trực tiếp qua điện thoại.
 Minh chứng 23: Hình ảnh cô giáo trao đổi bằng các hình thức khác nhau
 Vận động phụ huynh cùng đóng góp nguyên vật liệu để làm đồ dùng đồ chơi 
phục vụ cho việc chăm sóc giáo dục trẻ đạt kết quả tốt.
 Từ việc phối hợp chặt chẽ giữa giáo viên và phụ huynh mà công tác chăm 
sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ luôn đạt kết quả cao.
 6. Kết quả thực hiện
 6.1. Đối với giáo viên
 Trong quá trình thực hiện đề tài giúp tôi có thêm kinh nghiệm khi tổ chức 
các hoạt động rèn nề nếp cho trẻ. Tôi thấy trẻ ở lớp đã mạnh dạn, tự tin và có nề 
nếp trong các giờ hoạt động.
 Bản thân tôi đã mạnh dạn khi phối hợp với cha mẹ trẻ trong công tác giáo 
dục rèn nề nếp cho trẻ. Từ đó, giúp tôi nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, 
đáp ứng được nhu cầu đổi mới phương pháp giáo dục hiện nay.
 6.2. Đối với trẻ

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_ren_ne_nep_cho_tre_24.docx