Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kỹ năng đọc hiểu văn bản cho học sinh THCS
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kỹ năng đọc hiểu văn bản cho học sinh THCS", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kỹ năng đọc hiểu văn bản cho học sinh THCS
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO KRÔNG ANA TRƯỜNG PTDTNT KRÔNG ANA MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KỸ NĂNG ĐỌC- HIỂU VĂN BẢN CHO HỌC SINH THCS HOÀNG MINH SƠN Họ và tên: HOÀNG MINH SƠN Chức vụ: Giáo viên Đơn vị: TRƯỜNG PTDTNT KRÔNG ANA Trình độ đào tạo: CĐSP Chuyên môn: Ngữ văn NĂM HỌC 2016-2017 1 MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KỸ NĂNG ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN CHO HỌC SINH THCS PHẦN I: MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: 1.1. Đổi mới phương pháp dạy học là một nhiệm vụ trọng tâm trong trường phổ thông hiện nay. Môn Ngữ Văn là môn học công cụ, có vai trò rất quan trọng trong việc hình thành phẩm chất, năng lực của người học nên càng phải tích cực đổi mới về mọi mặt. 1.2. Theo quan điểm đổi mới, việc dạy và học văn trước đây gọi là Giảng văn, nay được gọi là đọc-hiểu văn bản. Thuật ngữ đọc-hiểu văn bản được chính thức dùng trong sách giáo khoa từ đợt thay sách năm 2002. Việc dùng thuật ngữ này cho thấy sự thay đổi về bản chất của việc dạy và học văn ở trường phổ thông. Tuy nhiên không phải ai cũng hiểu một cách đầy đủ, thấu đáo về thuật ngữ này. Từ đó dẫn đến việc thực hiện đọc-hiểu trong giờ học văn bản vẫn còn nhiều bất cập. 1.3. Bộ môn Ngữ Văn gồm 3 phân môn : Văn học, Tiếng Việt và Tập Làm Văn. Với phân môn Văn học, người học muốn hiểu văn bản, muốn chiếm lĩnh tác phẩm thì việc đầu tiên là phải đọc. Vì thế, đọc là hoạt động cơ bản, là điều kiện tiên quyết mà người học phải thực hiện khi học văn bản. 1.4. Đọc phải có phương pháp thì mới hiểu được văn bản chứ đọc không đơn giản chỉ là một hoạt động cơ học thuần túy. Muốn hiểu thì phải đọc. Đọc rồi phải hiểu. Đọc mà không hiểu hoặc hiểu một cách hời hợt thì coi như không đạt mục tiêu của việc học. 1.5. Trên thực tế, vẫn còn nhiều giáo viên do chưa hiểu rõ bản chất của hoạt động đọc-hiểu nên chưa chú trọng hướng dẫn học sinh những thao tác tư duy cần thiết dẫn đến nhiều học sinh kỹ năng đọc - hiểu còn yếu. 3 4.2. Đề tài này được rút ra từ thực tế giảng dạy trong nhiều năm ở các khối lớp, trong giờ học văn bản. 5. Phương pháp nghiên cứu: - Tìm hiểu, phân tích những quan điểm về vấn đề đọc- hiểu văn bản trong dạy và học ngữ văn trong trường phổ thông. - Tìm hiểu, phân tích cấu tạo chương trình, chuẩn kiến thức kỹ năng phân môn văn học (đọc-hiểu văn bản) Ngữ văn THCS từ lớp 6 đến lớp 9. - Trao đổi với các đồng nghiệp giảng dạy ở các trường THCS khác để thấy những thiếu sót có tính phổ biến trong việc đọc-hiểu văn bản của thầy và trò nói chung. - Nghiên cứu những tài liệu về việc dạy và học văn nhằm tìm ra những vấn đề chưa được hoặc còn ít đề cập xung quanh việc dạy và học văn bản. - Phân tích, tổng hợp các biện pháp để rèn kỹ năng đọc-hiểu cho học sinh. PHẦN II: NỘI DUNG ĐỀ TÀI MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KỸ NĂNG ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN CHO HỌC SINH THCS I. Cơ sở lý luận: 1. Dạy và học văn theo phương pháp truyền thống: Hoạt động dạy học văn trong nhà trường phổ thông đã trải qua những lần đổi tên từ giảng văn qua phân tích tác phẩm văn học đến dạy học tác phẩm văn chương và hiện nay là đọc hiểu văn vản. Việc thay đổi tên gọi không đơn thuần chỉ là sự thay đổi về hình thức mà đằng sau mỗi tên gọi là cả một hệ thống quan niệm dạy học gắn liền với bản chất của nó. 5 chương là chưa xác định được nhân tố trung tâm của hoạt động dạy học, nhất là phương hướng dạy học hướng vào học sinh, lấy học sinh làm trung tâm. Thêm vào đó, như tên gọi của nó, thuật ngữ này đề ra yêu cầu chỉ tuyển chọn những tác phẩm có chất văn chương để giảng dạy. Đây là quan niệm hẹp hòi về văn ở trường phổ thông. Tóm lại, tên gọi cũng như cách dạy này vẫn chưa làm thay đổi triệt để bản chất của hoạt động dạy và học văn. 2. Đọc –hiểu văn bản và quan niệm đổi mới trong dạy và học văn: 2.1. Những hạn chế của các tên gọi trên đã dẫn đến sự ra đời của thuật ngữ đọc hiểu để thay thế chúng. Thuật ngữ đọc hiểu lần đầu tiên xuất hiện trong cuốn Ngữ văn 6 (2002). Trước đây tương ứng với ba phân môn chúng ta có ba bộ sách giáo khoa độc lập là Văn học, Làm văn và Tiếng Việt, nay hợp nhất lại trong cuốn Ngữ văn. Theo đó tên gọi giảng văn, phân tích tác phẩm văn học, dạy học tác phẩm văn chương được đổi thành dạy đọc hiểu văn bản. - Sự thay đổi về mặt bản chất của hoạt động tìm hiểu văn bản của môn Ngữ văn qua tên gọi đọc -hiểu được thể hiện qua nội hàm của khái niệm “đọc” và “hiểu” trong quan niệm về dạy học hiện nay. 2.2. Một số quan điểm về đọc- hiểu văn bản : 2.2.1.Đọc ở đây không phải chỉ là hoạt động biến các ký tự thành âm thanh ngôn ngữ, mà là một quá trình nhận thức. Thông qua việc đọc, người đọc sẽ phải giải mã các ngôn ngữ, hình ảnh nghệ thuật để tiếp nhận tác phẩm ở nhiều góc độ khác nhau. Từ đó hình thành một thái độ, tư tưởng, tình cảm, kỹ năng sống nhất định. 2.2.2.Trong quan niệm thông thường “hiểu” là nắm vững và vận dụng được, hiểu là nhận biết một tri thức nào đó, nhớ được, nhắc đúng tri thức. “Hiểu” có nhiều mức: hiểu nghĩa đen của một từ, câu, sự kiện cụ thể; hiểu nghĩa hàm ẩn của các yếu tố cấu thành văn bản; nắm bắt chủ đề, thông điệp của tác phẩm và hiểu gắn liền với cảm xúc hành động. 7 môn văn là môn dạy đọc văn vừa thể hiện cách hiểu thực sự bản chất của văn học, vừa hiểu đúng thực chất của việc dạy văn là dạy năng lực, phát triển năng lực chủ thể của học sinh. Với những quan niệm mới về “đọc” và “hiểu” như trên thì rõ ràng bản chất của dạy đọc hiểu đã thay đổi về chất so với các hoạt động tìm hiểu văn bản trước đây. Mỗi bản thân học sinh phải tự mình đọc hiểu lấy văn bản dưới sự hướng dẫn của giáo viên chứ giáo viên không còn cảm thụ thay, hiểu thay cho học sinh như trước. Dạy học đọc- hiểu văn bản là dạy cho học sinh cách tự học, bao gồm cả hiểu và cảm thụ văn bản. II. Thực trạng vấn đề: 1.Thuận lợi chung: - Phân phối chương trình Ngữ Văn THCS quy định số tiết ở các lớp 6,7,8 là 4 tiết /tuần, trong đó có 2 tiết học văn bản, 1 tiết Tiếng Việt và 1 tiết Tập Làm Văn. Lớp 9 là 5 tiết /tuần, trong đó học văn bản 3 tiết, Tiếng Việt 1 tiết và Tập Làm Văn 1 tiết. Như vậy, số tiết học văn bản chiếm tỉ lệ cao so với số tiết học Tiếng Việt và Tập Làm Văn. - Bên cạnh sách giáo khoa, Bộ Giáo dục còn cho phát hành nhiều tài liệu tham khảo như sách giáo viên, sách bài tập Ngữ Văn và nhiều sách tham khảo khác thuận lợi cho giáo viên và học sinh. - Hàng năm, giáo viên được bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, tập huấn về các phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực. 2. Khó khăn: - Thuật ngữ đọc hiểu xuất hiện lần đầu tiên trong cuốn sách Ngữ văn tích hợp (Ngữ văn 6 - 2002) nhưng đến nay thì vẫn chưa có một định nghĩa rõ ràng, một cách hiểu thống nhất về nó. Đã có nhiều bài viết trên các tạp chí chuyên ngành, các chuyên luận của các tác giả đầu ngành về vấn đề đọc 9 III. Một số biện pháp đã thực hiện để rèn kỹ năng đọc-hiểu văn bản cho học sinh: Văn bản tồn tại ở nhiều dạng, có văn bản ngắn chỉ một câu như tục ngữ, thành ngữ. Có văn bản chỉ là một đoạn văn ngắn, một trích đoạn một vài trang. Có văn bản dài vài chục trang hay hàng nghìn trang như một truyện ngắn, một cuốn tiểu thuyết Nhưng dù là ngắn hay dài, muốn hiểu được văn bản thì việc đầu tiên là phải đọc. Giáo viên phải yêu cầu học sinh đọc trước ở nhà. Trong chương trình Ngữ Văn THCS, các văn bản nhìn chung không quá dài. Bố cục, cách trình bày, lập luận không quá phức tạp. Nên việc học sinh tự đọc trước ở nhà, bước đầu nắm sơ lược nội dung văn bản là hoàn toàn có thể thực hiện được. Nhưng để giúp cho học sinh hiểu một cách toàn diện các giá trị của văn bản, giáo viên cần phải có sự hướng dẫn, giúp cho học sinh có các thao tác tư duy cần thiết, hình thành phương pháp chung. Có thể thực hiện các biện pháp để rèn kỹ năng đọc-hiểu văn bản cho học sinh như sau: 1.Biện pháp 1: Hướng dẫn học sinh cách đọc hiểu phần chú thích: - Mục tiêu: giúp học sinh xác định được các ý chính cần nắm trong khâu tìm hiểu chung về tác giả, văn bản - Nội dung của biện pháp: Cuối mỗi văn bản bao giờ cũng là phần chú thích. Phần chú thích gồm hai ý: giới thiệu về tác giả, tác phẩm và giải nghĩa từ khó của bài. Tùy theo từng tác giả, tác phẩm mà sách giáo khoa giới thiệu dài hay ngắn. Giáo viên cần hướng dẫn học sinh cách hiểu chú thích một cách ngắn gọn nhất, ghi thật ngắn gọn những ý cơ bản về tác giả, tác phẩm. Về phần giới thiệu tác phẩm, chỉ hướng dẫn học sinh ghi chép về văn bản được tìm hiểu trong tiết học, còn tất cả các thông tin khác về các tác phẩm chính (nếu có) thì tìm hiểu theo sách khoa . Ví dụ: Khi dạy văn bản Những ngôi sao xa xôi của nhà văn Lê Minh Khuê (Ngữ Văn 9-tập 2), phần đọc hiểu chú thích có thể hướng dẫn học sinh đọc hiểu và ghi như sau: 11 để từ đó sẽ hướng dẫn học sinh tìm hiểu chuỗi sự việc và các hành động của các nhân vật trong truyện. Hoặc khi tìm hiểu truyện ngắn Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang Sáng- Ngữ Văn 9 tập 1), phải hướng dẫn học sinh đọc hiểu truyện theo hướng tìm hiểu hành động của nhân vật bé Thu và nhân vật ông Sáu, vì các hành động này cũng chính là chuỗi sự việc tạo nên nội dung, ý nghĩa của truyện. Hoặc như khi đọc hiểu văn bản Tinh thần yêu nước của nhân dân ta (Hồ Chí Minh- Ngữ Văn 7, tập 2) trước tiên phải giúp học sinh xác định đây là kiểu văn bản nghị luận để tiếp đó chỉ ra các luận điểm của văn bản nghị luận này. Tương tự như vậy, khi dạy văn bản biểu cảm phải chỉ ra và bám sát vào mạch cảm xúc của văn bản đó. Trên thực tế, nhiều khi giáo viên chưa thấy được tầm quan trọng của việc xác định kiểu văn bản dẫn đến việc đọc hiểu văn bản chưa khoa học, chưa tích hợp được với phân môn tập làm văn nên chưa có sự đổi mới trong phương pháp giảng dạy. 3. Biện pháp 3 : Dựa vào tên gọi để xác định ý chính của nội dung văn bản - Mục tiêu: Giúp học sinh phỏng đoán được nội dung văn bản một cách nhanh và chính xác. - Nội dung của biện pháp: + Một văn bản bao giờ cũng chứa đựng một nội dung nhất định. Tên gọi của văn bản luôn luôn gắn liền với nội dung, phản ánh chủ đề - đề tài văn bản đó. Vì thế giáo viên phải tập cho học sinh có thói quen tìm hiểu ý nghĩa tên gọi văn bản. Đây là thao tác đầu tiên, là bước tìm hiểu có tính khái quát, sơ bộ, đại cương. Nó định hướng cho các thao tác tiếp theo trong đọc-hiểu. Ví dụ : khi tìm hiểu văn bản Lão Hạc (Nam Cao- Ngữ văn 8, tập 1), sau khi đọc xong, giáo viên yêu cầu học sinh tìm hiểu : truyện ngắn này viết về gì ? Vì sao tác giả lại đặt tên truyện là Lão Hạc ? Học sinh dễ dàng trả lời được các ý này (truyện viết về lão Hạc, đặt tên truyện như vậy vì đó là nhân vật 13 lại có những con người ngày đêm lao động hăng say, miệt mài lặng lẽ, âm thầm, cống hiến cho đất nước. Việc dựa vào tên gọi của văn bản để bước đầu nắm bắt khái quát nội dung văn bản là một thao tác cần thiết. Cần phải rèn cho học sinh thao tác này bới đó là một cách nhìn bao quát, là cơ sở định hướng để tiếp tục tìm tòi, khám phá văn bản. Tạo cho học sinh thói quen này cũng chính là tạo thói quen tìm hiểu khi tiếp xúc với văn bản. 4. Biện pháp 4 : Dựa vào câu chủ đề để tìm hiểu đoạn văn - Mục tiêu: Biết tìm câu chủ đề để hiểu đoạn văn. - Nội dung của biện pháp: 4.1. Lý thuyết về đoạn văn: Một văn bản bao gồm nhiều đoạn văn. Mỗi đoạn văn lại bao gồm nhiều câu văn. Các câu văn trong đoạn được sắp xếp theo một trình tự nhất định, theo một cách trình bày nhất định. - Chương trình, nội dung sách giáo khoa môn Văn lớp 9 lưu hành trước năm thay sách 2002, có đưa ra 4 cách trình bày đoạn văn, tóm lược như sau : + Trình bày theo cách diễn dịch : câu chốt (câu chủ đề) nằm ở đầu đoạn. + Trình bày theo cách quy nạp : câu chốt nằm ở cuối đoạn. + Trình bày theo cách song hành : không có câu chốt, các câu trong đoạn quan hệ ngang hàng với nhau và cùng tập trung vào đề tài của đoạn. + Trình bày theo cách móc xích : không có câu chốt. Câu sau liên kết với câu đứng trước nó về mặt nội dung hoặc bằng các từ ngữ liên kết. Cứ thế cho đến hết đoạn. - Chương trình, sách giáo khoa Ngữ Văn 9 hiện hành đưa ra 2 kiểu trình bày đoạn văn, gọi là phép lập luận : + Phép lập luận phân tích (tương ứng với cách trình bày diễn dịch). + Phép lập luận tổng hợp (tương ứng với cách trình bày tổng hợp). 15
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_ren_ky_nang_doc_hieu.doc

