Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp trẻ 5-6 tuổi học tốt môn Khám phá khoa học
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp trẻ 5-6 tuổi học tốt môn Khám phá khoa học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp trẻ 5-6 tuổi học tốt môn Khám phá khoa học
PHÒNG GIÁO GD-ĐT KRÔNG ANA TRƯỜNG MẦM NON HOA CÚC TÊN SÁNG KIẾN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP TRẺ 5-6 TUỔI HỌC TỐT MÔN KHÁM PHÁ KHOA HỌC Thuộc lĩnh vực : Phát triển nhận thức Họ và tên tác giả: Trần Thị Kim Loan Chức danh : Giáo viên Trình độ chuyên môn cao nhất: Đại học sư phạm Chuyên ngành đào tạo: Sư phạm mầm non Krông Ana, tháng 02 năm 2017 1 I. Phần mở đầu 1. Lý do chọn đề tài “Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai”. đó là một câu hát rất là quen thuộc với mọi người. Muốn ngày mai có những nhân tài, những con người có đầy đủ những trí thức, hiểu biết để cống hiến cho nhân loại thì ngay lúc này giáo dục lưa tuổi mầm non là điều thiết yếu và quan trọng. Trong mỗi chúng ta phải có trách nhiệm nặng nề đối với mầm non tương lai của đất nước. Mỗi đứa trẻ lớn lên muốn phát triển toàn diện thì phải có những yếu tố quan trọng giúp cho sự phát triển nhân cách sau này cho trẻ. Vì vậy trẻ cần được tiếp thu toàn bộ các môn học phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí của trẻ. Thông qua các môn học giúp trẻ làm quen và tiếp xúc với thế giới xung quanh, hình thành ở trẻ những biểu tượng phong phú và đa dạng hơn. Trong tất cả các môn học của trẻ mầm non, môn khám phá khoa học là một bộ môn quan trọng đối với trẻ, đặc biệt là trẻ 5 tuổi, môn học này sẽ cung cấp những kiến thức, kĩ năng sống cho trẻ trước khi vào lớp một. Đồng thời thông qua môn học này giúp trẻ phát triển và hình thành các kỹ năng quan sát, tư duy, phân tích, tổng hợp, khái quát. Khi nói đến trẻ mầm non không ai không biết trẻ ở lứa tuổi này rất thích tìm hiểu, khám phá môi trường xung quanh bởi thế giới xung quanh thật bao la rộng lớn, có biết bao điều mới lạ hấp dẫn, và còn có biết bao điều mới lạ lạ lẫm khó hiểu mà trẻ tò mò muốn biết, muốn được khám phá. Khám phá khoa học mang lại nguồn biểu tượng vô cùng phong phú, đa dạng, sinh động, đầy hấp dẫn với trẻ thơ, từ môi trường tự nhiên( cỏ cây hoa lá, chiêm muông...) đến môi trường xã hội( công việc của mỗi người trong xã hội, mối quan hệ giữa con người với nhau) và trẻ hiểu biết về chính bản thân mình vì thế trẻ luôn có niềm khát khao khám phá tìm hiểu về chúng. Khám phá khoa học đòi hỏi trẻ phải sử dụng tích cực các giác quan chính vì vậy sẽ phát triển ở trẻ năng lực quan sát, khả năng phân tích, so sánh, tổng hợp nhờ vậy khả năng cảm nhận của trẻ sẻ nhanh nhạy, chính xác, những biểu tượng, kết quả trẻ thu nhận được trở nên cụ thể, sinh động và hấp dẫn hơn. Qua những thí nghiệm nhỏ trẻ được tự mình thực hiện trong độ tuổi mầm non sẽ hình thành ở trẻ những biểu tượng về thiên nhiên chính là cơ sở khoa học sau này của trẻ. Nếu giáo viên không quan tâm tạo điều kiện học tập cho trẻ, không sáng tạo trong việc tổ chức, tổ chức tiết dạy nhằm làm cho trẻ hứng thú, tập chung chú ý vào tiết học thì hiệu quả không cao. Tôi rất quan tâm và trăn trở về việc làm sao để có những phương pháp hay và hữu ích nhất giúp trẻ thỏa mãn được nhu cầu khám phá và tìm hiểu thế giới xung quanh, mai này biết đâu đó những “Mầm non” ấy sẽ tiếp tục là những nhà khoa học khám phá ra những điều kì vĩ hơn nữa. Chính vì thế tôi không những áp dụng những phương pháp vốn có trong trường, lớp, sách vở mà thường xuyên học hỏi từ đồng nghiệp, sách báo và đặc biệt là tôi rất quan tâm tới những sáng kiến kinh nghiệm về khám phá khoa học của những giáo viên trong huyện và tỉnh, tôi cũng nghiên cứu và áp dụng vào các tiết dạy của mình. Khi áp dụng sáng kiến vào trẻ tôi thật sự cảm nhận rõ vai 3 Phương pháp quan sát: Trong các giờ học khám phá khoa học tôi luôn quan sát chú ý từng trẻ để uốn nắn, củng cố, rèn luyện thêm các kỹ năng cho trẻ. Phương pháp trò chuyện: Trao đổi với phụ huynh về tình hình học tập của trẻ ở lớp cũng như ở nhà, qua đó có điều kiện theo dõi, uốn nắn trẻ. Bên cạnh đó tôi cũng thường xuyên trò chuyện cùng trẻ để nắm bắt được các nguyên nhân làm cho trẻ không thích học môn khám phá khoa học và tìm ra hướng khắc phục. c) Phương pháp thống kê toán học : Vào đầu năm học, tôi đã chủ động kiểm tra, khảo sát, thống kê về hoạt động khám phá khoa học để nắm bắt khả năng nhận thức của từng cá nhân trẻ. Cụ thể: Số Kết quả Nội dung lượng trẻ Tốt Tỷ lệ Khá Tỷ lệ TB Tỷ lệ Yếu Tỷ lệ Kỹ năng quan sát, so sánh, 37 11 29,7% 12 32,4% 13 35,1% 1 2,8% phân loại Phát hiện cái mới lạ và có 37 12 32,4% 14 37,9% 11 29,7% 0 thái độ hành động phù hợp Biết dùng câu có nghĩa đầy đủ, rõ ràng 37 11 29,7% 11 29,7% 15 40,6% mạch lạc, diễn đạt sáng tạo Có kỹ năng sống và khả 37 13 35,1% 12 32,4% 12 32,4% năng giao tiếp tốt II. Phần nội dung: 1. Cơ sở lí luận : Cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh sẽ cung cấp cho trẻ vốn hiểu biết về môi trường tự nhiên ( cỏ cây, hoa lá, chim muôn...) đến môi trường xã hội ( công việc của mỗi người trong xã hội, mối quan hệ giữa con người với 5 huyết và yêu nghề mến trẻ, nên thuận lợi tham gia dự giờ, đúc rút kinh nghiệm trong công tác giảng dạy và công tác xây dựng môi trường giáo dục sạch đẹp, an toàn cho trẻ. Đa số trẻ ở gần trường nên đi học rất chuyên cần. Lãnh đạo địa phương và các đoàn thể quan tâm tạo điều kiện cho việc dạy và học. Phụ huynh quan tâm đến con em mình, nhiệt tình phối hợp cùng tôi trong việc dạy dỗ các cháu và thường xuyên ủng hộ những nguyên vật liệu để làm đồ dùng dạy học và vui chơi cho các cháu. *Hạn chế: Bên cạnh những thuận lợi khi chưa thực hiện đề tài còn có những hạn chế sau đây: Giáo viên chưa chủ động và chưa linh hoạt trong việc tổ chức giờ học môn khám phá khoa học Môi trường cho trẻ hoạt động ở lớp cũng chưa phong phú (chưa có nơi nuôi một số con vật cho trẻ được làm quen). Khám phá khoa học đòi hỏi độ chính xác cao nên trẻ cần được tham quan, trải nghiệm thực tế nhiều, trẻ cần được tri giác những con vật thật, đồ vật thật, cây cối, danh lam thắng cảnhnhưng nhà trường lại chưa có điều kiện để tổ chức cho trẻ đi tham quan, trải nghiệm thực tế còn ít. Các cháu phần đông gia đình làm nông nên việc nhận thức để giáo dục con cái một cách khoa học là chưa cao. * Nguyên nhân chủ quan Trình độ nhận thức của các cháu không đồng đều. Các cháu chưa có các kỹ năng cơ bản như kỹ năng quan sát, kỹ năng so sánh, phân tích, tổng hợpMột số trẻ chưa qua lớp mầm, lớp chồi nên vẫn còn tự do trong học tập và chơi, chưa mạnh dạn, tích cực trong các hoạt động. Trong lớp có một số trẻ cá biệt, cháu không chú ý, mặt nhận thức của cháu hạn chế hơn nhiều so với trẻ khác. Dẫn đến thời gian hoạt động dành cho những cháu yếu hơi nhiều Góc thiên nhiên còn nghèo, số cây ít, loại cây chưa phong phú, đồ chơi, đồ dùng còn ít, thiếu những hình ảnh đẹp, sinh động để trẻ quan sát Cơ sở vật chất chưa thật sự đầy đủ, đồ dùng phục vụ tiết dạy còn rất nghèo nàn như những vật mẫu, những con vật thật, đồ vật... Đồ dùng để trẻ thử nghiệm thực tế còn ít. Đồ dùng, đồ chơi, vật thật chưa đầy đủ, lớp học chưa có thiết bị để kết nối mạng phục vụ công tác giảng dạy trên máy tính. Bên cạnh đó việc sử dụng đồ dùng dạy học chưa khoa học, dẫn đến giờ học trẻ ít tập trung chú ý nên hiệu quả trên tiết học chưa cao. Vì vậy việc giúp trẻ khám phá khoa học rất quan trọng vì môn học này giúp trẻ tích luỹ một số vốn 7 Nhận thức rõ tầm quan trọng của đồ dùng trực quan đối với tiết khám phá khoa học cho nên ngay từ đầu năm học tôi mạnh dạn đề xuất với ban giám hiệu nhà trường trang bị thêm cho các lớp các thiết bị đồ dùng dạy học như ti vi, bảng, tranh ảnh lô tô, và một số các mô hình mô phỏng để phục vụ dạy học. Thông qua những bộ phim hoạt hình ngắn sinh động và đẹp mắt, các bé sẽ được tìm tòi, khám phá và trải nghiệm với những điều bé muốn biết về thế giới xung quanh kỳ thú. Khi lập kế hoạch cho mỗi tiết học tôi đã rất chú ý tới cách thức truyền tải kiến thức với trẻ đặc biệt đồ dùng trực quan vừa phải mang tính thẩm mỹ, tính chính xác và sự sáng tạo từ đó kich thích được sự hứng thú, ham hiểu biết ở trẻ Tôi luôn lưu ý tới việc sử dụng đồ đùng trực quan phải phù hợp với nội dung từng tiết dạy ngay từ khi lập kế hoạch cho mỗi tiết khám phá khoa học tôi luôn suy nghĩ và lựa chọn những đồ dùng trực quan sao cho trẻ dễ hiểu và thích thú đối với những tiết chủ đề về môi trường xã hội thì tôi lựa chọn tranh, ảnh để dạy trẻ. Đối với những tiết về đồ dùng, đồ vật tôi sử dụng vật thật và đồ dùng đồ chơi bằng nhựa hoặc đồ chơi tự tạo Vì trẻ mẫu giáo thường tư duy trực quan hình ảnh, kinh nghiệm sống của trẻ còn ít nên tôi thường xuyên tận dụng các vật thật để dạy trẻ. Khi cho trẻ được tiếp xúc với vật thật thì tôi nhận thấy trẻ hứng thú và nắm bắt kiến thức một cách rõ ràng nhất. Ví dụ: Khi tìm hiểu về quả soài tôi dùng quả soài thật cho trẻ quan sát và trải nghiệm: nhìn, sờ, nếm, ngửi Đây là quả gì? nhìn xem quả soài có hình dạng gì? Màu gì? Hãy sờ xem vỏ của chúng có đặc điểm gì? muốn biết soài có mùi gì hãy đưa lên mũi ngửi xem nào Cuối cùng tôi cho trẻ nếm thử vị của soài sau đó hỏi trẻ về vị của soài (có trẻ nói chua, trẻ nói ngọt) từ đó tôi giải thích “Qủa soài chưa chín có vị chua, còn quả soài chín có vị ngọt” khi được trải nghiệm thực tế thì trẻ đã nắm vững những kiến thức tôi muốn truyền đạt. Qua bài về quả soài tôi không những đã cho trẻ tìm hiểu một cách tổng quát về quả soài mà còn dạy trẻ biết lợi ích của soài đối với sức khỏe con người. Việc sử dụng màn hình, máy chiếu cũng là một hình thức sử dụng trực quan vì vậy tôi thường xuyên sử dụng tạo điều kiện để cho trẻ nắm kiến thức. Thông qua những cảnh quay, đoạn băng được đưa lên màn hình sẽ tạo ra sự thay đổi, sự mới lạ cho trẻ vì tất cả những sự vật hiện tượng đều có thể chụp lại, quay lại để đưa lên màn hình cơ hội để trẻ khám phá những sự vật- hiện tượng, con vật mà trẻ khó có cơ hội tiếp xúc như: tìm hiểu động vật sống trong rừng, động vật sống dưới biển Phương tiện trực quan trong các hoạt động dạy và học rất đa dạng như: Đồ dùng trực quan bằng vật thật: các con vật, một số loại rau, Các loại mô hình: mô hình sân bay, nhà ga...Các loại tranh ảnh, lô tô. 9 Cây nảy mầm được nhờ được gieo xuống đất, có ánh sáng và tưới nước đầy đủ và ngược lại cây mà không được chăm sóc đầy đủ sẽ không nảy mầm được. Ví dụ 2: * Mục tiêu: Cho trẻ hiểu với cùng mọt đồ dùng nhưng chọn đơn vị đo khác nhau thì kết quả cũng khác nhau * Chuẩn bị: Một chai nhựa trong 1 lít, ba cốc nhựa to, nhỡ, nhỏ, thẻ số 4, 5, 6 Lần lượt cho trẻ đong nước bằng các cốc khác nhau rồi đổ vào chai nhựa( cốc to, nhỡ, nhỏ) Sau mỗi lần đong ghi kết quả lại, quan sát kết quả các chai bằng các thẻ số * Giải thích và kết luận: Sử dụng cốc to đổ nước vào chai sẽ nhanh đầy hơn( 4 cốc), sử dụng cốc nhỡ phải đong 6 cốc, sử dụng cốc nhỏ sẽ lâu đầy hơn( 8 cốc). Ví dụ 3: Thí nghiệm về nước và các lớp chất lỏng * Chuẩn bị: dầu ăn, nước lọc, si rô, cốc thủy tinh Tiến hành: Cho trẻ chọn một chất đổ vào ly, tiếp theo chọn chất thứ hai, cuối cùng cho chất thứ ba vào Cho trẻ quan sát rút ra kết luận, lớp si rô nặng nhất nên ở dưới cùng, lớp dầu ăn nhẹ nhất nên ở trên cùng, và lớp nước ở giữa Khi quan sát trẻ hoạt động tôi thấy những biểu hiện trên trẻ rất tích cực, trẻ rất thích thú khi được quan sát hoặc thử nghiệm những hoạt động khám phá. Trong quá trình quan sát trẻ tỏ ra nhanh nhẹn linh hoạt và phát triển nhiều vốn kinh nghiệm, vốn từ của trẻ trở nên phong phú hơn khả năng diễn đạt tổt hơn. Vì vậy chúng ta những giáo viên mầm non có nhiệm vụ khuyến khích, tạo điều kiện giúp trẻ được khám phá, trải nghiệm Tuy nhiên, nội dung và đối tượng cho trẻ làm quen cần được chọn lọc, nội dung cho trẻ khám phá thử nghiệm đảm bảo cung cấp cho trẻ những kiến thức đơn giản, gần gũi và đặc biệt là phải an toàn về quy trình thực hiện Biện pháp 3: Tạo môi trường cho trẻ hoạt động Hoạt động khám phá khoa học cho trẻ được tổ chức theo chủ đề, nội dung của hoạt động xuất phát từ nhu cầu và hứng thú của trẻ. Để tạo cơ hội cho trẻ được trải nghiệm tối đa trong hoạt động khám phá khoa học, giáo viên cần xây dựng môi trường cho trẻ hoạt động, đặc biệt môi trường ở góc thiên nhiên. Một môi trường hiệu quả cho trẻ khám phá khoa học không chỉ giúp trẻ củng cố kiến thức mà còn phải giúp trẻ phát triển năng lực khám phá và thái độ đối với hoạt động khám phá khoa học. 11
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_tre_5_6_tuoi_hoc.doc

