Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh học tốt phân môn Chính tả Lớp 5

doc 21 trang SK Quản Lý 01/11/2025 350
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh học tốt phân môn Chính tả Lớp 5", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh học tốt phân môn Chính tả Lớp 5

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh học tốt phân môn Chính tả Lớp 5
 I. PHẦN MỞ ĐẦU
 1. Lý do chọn đề tài:
 Bác Hồ kính yêu của chúng ta lúc sinh thời có nói: “ Vì lợi ích mười năm trồng 
cây, vì lợi ích trăm năm trồng người ”. Bác luôn quan tâm đến nền giáo dục của nước 
nhà, đặc biệt là những mầm non tương lai của đất nước. Bác luôn kì vọng thế hệ thiếu 
nhi sau này sẽ đưa nước nhà sánh vai với các cường quốc năm châu. Để thực hiện 
nguyện vọng đó của Bác, Đảng và nhà nước ta hiện nay rất chú trọng đến sự nghiệp 
trồng người.
 Nhà trường chính là nơi kết tinh trình độ văn minh của một quốc gia, là nơi giáo 
dục thế hệ trẻ trở thành những người có ích cho xã hội, giúp các em phát triển về mọi 
mặt. Trong chương trình Tiếng Việt, việc dạy đúng chính tả phải được coi trọng ngay 
từ buổi đầu đi học, từ khi các em bước vào lớp 1 và cả cấp học tiểu học. Phân môn 
chính tả có nhiệm vụ chủ yếu rèn luyện cho học sinh nắm các quy tắc và thói quen 
viết đúng - chuẩn chính tả tiếng Việt. Cùng với các phân môn khác, chính tả giúp cho 
học sinh chiếm lĩnh văn hóa Việt - làm công cụ để giao tiếp, tư duy. Vì vậy, chính tả 
được dạy liên tục từ lớp Một đến lớp Năm với các loại bài như: nhìn - viết, nghe - 
viết, nhớ - viết, bài tập so sánh,  Và như thế giúp các em được học môn chính tả 
một cách khoa học, cẩn thận và sử dụng công cụ này suốt những năm tháng trong thời 
kì học tập ở nhà trường cũng như suốt cuộc đời. 
 Thế nhưng, hiện tượng viết sai chính tả không chỉ xảy ra đối với học sinh trong 
nhà trường, tình trạng sai chính tả đã xuất hiện rất phổ biến ngoài xã hội, trên các 
phương tiện truyền thông, pa-nô, áp phích, internet,  nhất là ở học sinh bậc tiểu 
học. Cụ thể là trên địa bàn các xã EaNa nơi các em học sinh trường Tiểu học Lê Hồng 
Phong đang sinh sống. Sống trên một địa bàn nhưng gia đình các em đến từ nhiều 
vùng quê khác nhau, giọng nói khác nhau. Em thì nói giọng miền Nam, em giọng 
miền Bắc, em giọng miền Trung. Thường những em giọng miền Nam hay đọc và viết 
sai các tiếng có âm cuối là c/t; (ví dụ: cát/các; bác/bát, ); âm cuối n/ng (ví dụ: 
lan/lang; đan/đang; bàn/bàng, lượn/lượng); vần im/iêm (ví dụ: tim/tiêm; 
 1 - Một số bài viết chính tả của học sinh khối lớp Năm các năm học trước, đặc biệt 
là học sinh lớp 5B Trường Tiểu học Lê Hông Phong năm học 2017 - 2018.
 4. Giới hạn của đề tài: 
 - Chương trình và nội dung của phân môn chính tả lớp Năm. 
 - Tài liệu hướng dẫn học môn Tiếng Việt lớp 5.
 - Nghiên cứu các tài liệu về “Phương pháp dạy học môn chính tả ở tiểu học”
 5. Phương pháp nghiên cứu:
 Để hoàn thành sáng kiến kinh nghiệm này, tôi đã dùng một số phương pháp 
sau:
 a. Nghiên cứu tài liệu:
 Nghiên cứu những tài liệu có liên quan đến phân môn Chính tả lớp Năm
 b. Phương pháp thực nghiệm:
 Tiến hành thu thập các số liệu trong điều kiện cho phép để đảm bảo cho sự thể 
hiện tích cực các nội dung nghiên cứu.
 c. Phương pháp trò chuyện – phỏng vấn:
 Bản thân trực tiếp trò chuyện, trao đổi với một số giáo viên trong trường, đặc 
biệt giáo viên khối Năm trường Tiểu học Lê Hồng Phong.
 d. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động:
 Phân tích, đánh giá bài làm của học sinh ở phân môn Chính tả lớp Năm, qua 
từng đợt kiểm tra định kì của năm học 2017-2018.
 e. Phương pháp phân tích- tổng hợp.
 g. Phương pháp thống kê.
 II. PHẦN NỘI DUNG
 1. Cơ sở lý luận của đề tài:
 Các lĩnh vực ngôn ngữ như: ngôn ngữ học, ngữ pháp học, phong cách học đều 
có những đóng góp về mặt lý luận để các nhà khoa học giáo dục biên soạn chương 
trình học Tiếng Việt cho từng cấp học. Ở phân môn chính tả, các lĩnh vực của ngôn 
ngữ học đều có sự đóng góp để hình thành cơ sở khoa học. Chẳng hạn như ngữ pháp 
 3 then chốt của nền văn hóa nước nhà. Việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt cả 
trong lời nói, lẫn chữ viết là việc làm hết sức cần thiết của tất cả mọi người dân Việt 
Nam.
 Thế nhưng hiện tượng viết sai chính tả đang là mối quan tâm của nhiều người, 
của cộng đồng xã hội. Việc viết sai chính tả xuất hiện ngày càng nhiều, không chỉ là 
học sinh Tiểu học, học sinh Trung học, sinh viên, đôi khi có cả một số giáo viên và 
những người thành đạt, và trên một số pa- nô, bảng hiệu, quảng cáo nữa,...
 Hiện nay đa số học sinh thường thích xem truyện tranh như: Đô-rê-mon, Co-nan, 
Thủy thủ Mặt trăng, Bảy viên ngọc rồng,  hơn là đọc sách, tạp chí văn học,  Việc 
không có thói quen, không có niềm đam mê đọc sách dẫn tới vốn từ ngữ nghèo nàn, ít 
ỏi. Người đọc sách nhiều sẽ có vốn từ càng nhiều thì ít khi viết sai chính tả.
 Thông thường môn chính tả mới có yêu cầu về viết đúng, viết đẹp. Còn lại một số 
môn học khác, giáo viên thường bỏ qua việc soát lỗi, thậm chí chỉ yêu cầu học sinh 
học thuộc, tính toán đúng. Hơn nữa bài vở thì nhiều, thời gian hạn hẹp, áp lực công 
việc khá lớn và giáo viên chưa quan tâm đúng mức, nên việc sửa lỗi chính tả cũng 
chưa toàn tâm, toàn ý, chưa có hiệu quả. 
 Mặc khác một bộ phận không nhỏ học sinh còn ham chơi lười học, không chịu 
suy nghĩ, tư duy trong việc nói và viết một cách chuẩn mực tiếng Việt (vì có bài mẫu, 
sách mẫu, học thêm )
 Từ những vấn đề nêu trên để hạn chế việc học sinh viết sai chính tả, tôi đã đi sâu 
về bộ môn này, nghiên cứu, suy nghĩ để tìm ra giải pháp giúp các em viết đúng chính 
tả. “Nét chữ là nết người” viết đúng chính tả thể hiện ý thức của người học sinh trong 
học tập đối với chữ viết - một thứ chữ gắn liền với nền văn hóa dân tộc, đồng thời thể 
hiện lòng tự tôn dân tộc đối với tiếng Việt. 
 Đầu năm học, tôi được phân công chủ nhiệm lớp 5B. Sau khi khảo sát chất 
lượng đầu năm, để nắm bắt tình hình học tập của các em, tôi đã lập bảng thống kê lấy 
điểm riêng về phân môn Chính tả, trong bài làm môn Tiếng Việt. Tôi đã rút ra được 
một số điều như sau:
 5 Chính tả ở thư viện cũng hạn chế. Việc tiếp thu của các em cũng có phần hạn chế, các 
em cứ viết theo thói quen, đọc sao viết vậy, sửa rồi lại quên. 
 Qua trao đổi, dự giờ các đồng nghiệp cùng khối; thông qua việc nghiên cứu sách 
giáo khoa Tiếng Việt và kết quả khảo sát của học sinh, tôi nhận thấy tình trạng dạy và 
học chính tả hiện nay hiệu quả đạt chưa được cao, cụ thể là:
 - Kết quả khảo sát học tập của học sinh, các em còn mắc nhiều lỗi chính tả, tình 
trạng này có cả nguyên nhân ở nội dung và phương pháp dạy học của phân môn này.
 - Từ thực tiễn, tôi thấy giáo viên chuẩn bị bài giảng rất chu đáo, tận tâm giảng 
dạy tỉ mỉ cho học sinh cách viết từng chữ, từng câu nhưng cuối cùng vẫn có không ít 
học sinh viết sai, ngay cả những từ giáo viên mới vừa phân tích hướng dẫn xong.
 - Nguyên nhân dẫn đến cái sai là do một số học sinh đọc chậm, đọc ngắc ngứ, 
cách phát âm không chuẩn. Nói - đọc như thế nào thì viết như thế đó; học sinh phân 
biệt chưa rõ cách đọc nhất là “ tr ” và “ ch ”, “ s ” và “ x ”, “ gi - d ”,  thường 
hay lẫn lộn về sai thanh điệu do sự phát âm không phân biệt giữa thanh hỏi và thanh 
ngã, .
 - Một số học sinh ráp âm, ráp vần để tạo thành tiếng chưa thành thạo, nhất là đối 
với một số tiếng khó viết, ít gặp.
 Ví dụ: lấp loáng, suy thoái, gọn ghẽ, khoét, ngọ nguậy, ngoằn ngoèo, .
 - Phần lớn bị ảnh hưởng bởi môi trường sống nên các em chưa thật chú tâm đến 
học tập, tiếp thu kiến thức chậm, khó nhớ mau quên. Những kỹ năng cơ bản về nghe, 
nói, đọc, viết còn nhiều hạn chế.
 Trong quá trình giảng dạy và theo dõi chất lượng bộ môn, tôi thấy học sinh 
thường mắc phải hai loại chính tả như sau:
 1. Sai về nguyên tắc chính tả hiện hành:
 Là loại lỗi do người viết không nắm được các đặc điểm và nguyên tắc kết hợp 
các chữ cái, quy tắc viết hoa trong tiếng Việt
 1.1. Đặc điểm chính tả Tiếng Việt:
 - Tiếng Việt là ngôn ngữ phân tiết tính: các âm tiết được tách bạch rõ ràng 
 7 + Khi viết một tiếng, dấu thanh luôn được đặt ở âm chính: dấu nặng đặt bên 
dưới âm chính, các dấu khác được đặt ở phía trên âm chính.
 Ví dụ: hình, phận, rộng, đúng, tìm, tạo, 
 + Khi viết các tiếng có nguyên âm đôi mà không có âm cuối thì dấu thanh 
được đặt ở chữ cái đầu ghi nguyên âm.
 Ví dụ: mía, nghĩa, giữa, của, múa, lửa, 
 + Những tiếng có nguyên âm đôi mà có âm cuối thì dấu thanh được đặt ở chữ 
cái thứ hai ghi nguyên âm đôi.
 Ví dụ: biển, người, quốc, nước, luận, hoàng,  
 1.2 Quy tắc viết hoa hiện hành:
 - Tình trạng viết hoa trong chính tả hiện hành:
 + Đánh dấu sự bắt đầu một câu.
 + Ghi tên riêng của người, địa danh, tên cơ quan, tổ chức ...
 + Biểu thị sự tôn kính: Bác Hồ, Người ...
 Hai chức năng a và c nhìn chung được thực hiện một cách nhất quán trong 
chính tả tiếng Việt. Duy có chức năng b là còn nhiều điểm chưa thống nhất trong sử 
dụng.
 Ví dụ: 
 Cùng một tên tổ chức, cơ quan cũng tồn tại những cách viết khác nhau:
 Trường tiểu học Lê Hồng Phong.
 Trường Tiểu học Lê Hồng Phong.
 - Quy định về cách viết hoa tên riêng: (của Bộ trưởng Bộ Giáo dục & đào tạo 
ban hành). đang áp dụng trong nhà trường.
 + Đối với tên người và tên địa lý: viết hoa chữ cái đầu tất cả các tiếng tạo nên 
tên đó, không dùng gạch nối.
 Ví dụ: Võ Thị Sáu, Hà Nội, Bình Trị Thiên, Bình Dương
 + Đối với tên người và tên địa lý nước ngoài: viết hoa chữ cái đầu của mỗi bộ 
phận tạo thành tên riêng đó. Các tiếng trong một bộ phận của tên riêng được ngăn 
 9 lớn. Do đó đây là lỗi rất phổ biến trong học sinh. 
 * Lỗi khi viết phụ âm đầu:
 Trong phương ngữ Bắc và Nam có sự lẫn lộn giữa các chữ ghi âm đầu ch/tr, 
d/gi, s/x. Ngoài ra, trong quy ước về chữ quốc ngữ, một âm ghi bằng 2 hoặc 3 dạng 
(ví dụ: âm “cờ ” ghi bằng 3 chữ cái c / k /qu, âm “ngờ” ghi bằng ng/ngh, âm “gờ” 
ghi bằng g/gh) dù có những quy định riêng cho mỗi dạng khi ghép chữ, nhưng đối 
với học sinh tiểu học thì rất dễ lẫn lộn do không nhớ các quy định.
 * Lỗi khi viết âm cuối, vần:
 Đối với người Miền Nam, có thể nói việc phát âm hoàn toàn không phân biệt 
các vần có âm cuối n/ng và t/c. Mà số từ mang các vần này không nhỏ. Mặt khác 
hai bán âm cuối i,u/ lại được ghi bằng 4 con chữ i/y (trong: lai/lây), u/o (trong: 
sau/sao), do đó lỗi về âm cuối là lỗi khó khắc phục đối với học sinh các tỉnh phía 
Nam.
 Tóm lại: Qua tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến việc viết sai lỗi chính tả của học 
sinh, vấn đề mà cả xã hội đang quan tâm, việc tìm ra các giải pháp phù hợp là hết sức 
cấp bách đối với những ai làm công tác giáo dục, 
 3. Nội dung và hình thức của giải pháp:
 a. Mục tiêu của giải pháp:
 Từ việc nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của việc dạy chính tả, tôi 
nhận thấy rằng nếu chỉ dùng tài liệu hướng dẫn học, thì chưa đáp ứng đầy đủ với các 
yêu cầu dạy cho học sinh học yếu chính tả ở tiểu học. Vì vậy, để khắc phục lỗi chính 
tả mà học sinh mắc phải, tôi đã nghiên cứu và vận dụng một vài biện pháp để giúp các 
em nắm được các quy tắc chính tả, các mẹo luật chính tả phù hợp với trình độ tiếp thu 
của các em, hình thành kĩ năng, kĩ xảo chính tả, bỏ thói quen phát âm sai dẫn đến việc 
viết sai. 
 b. Nội dung và cách thực hiện giải pháp:
 Sau đây là một vài biện pháp mà tôi đã áp dụng trong những năm trực tiếp 
giảng dạy như sau: 
 11

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_hoc_tot.doc