Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh Lớp 1 dân tộc thiểu số qua môn Đạo đức
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh Lớp 1 dân tộc thiểu số qua môn Đạo đức", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh Lớp 1 dân tộc thiểu số qua môn Đạo đức
Phần thứ nhất: MỞ ĐẦU I. Đặt vấn đề Như chúng ta đã biết giáo dục kĩ năng sống là yêu cầu cấp thiết đối với thế hệ trẻ. Các em chính là những chủ nhân tương lai của đất nước, là những người quyết định sự phát triển của đất nước trong những năm tới. Nếu không có kĩ năng sống, các em sẽ không thể thực hiện tốt trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, cộng đồng và xã hội. Trong trường học, việc giáo dục kĩ năng sống và rèn luyện sức khỏe cho học sinh là vấn đề hết sức cần thiết. Nó góp phần hình thành nhân cách cho các em, giúp các em tự tin chủ động, biết cách xử lý tình huống trong cuộc sống và quan trọng hơn là khơi gợi những khả năng tư duy, sáng tạo. Từ năm 2010 – 2011, Bộ Giáo dục - Đào tạo đã đưa nội dung giáo dục kĩ năng sống lồng ghép vào các môn học như: Tự nhiên và Xã hội, Tiếng Việt, đạo đức, lịch sử- Địa lí, Âm nhạc, Mĩ thuật. và các hoạt động ngoài giờ lên lớp ở bậc tiểu học. Tuy nhiên, để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh đạt hiệu quả đòi hỏi nhiều yếu tố chứ không chỉ từ các bài giảng. Kĩ năng sống không phải tự nhiên có được mà phải hình thành dần trong quá trình học tập, lĩnh hội và rèn luyện trong cuộc sống. Quá trình hình thành kĩ năng sống diễn ra cả trong và ngoài hệ thống giáo dục. Thực tế cho thấy, lứa tuổi học sinh là lứa tuổi đang hình thành những giá trị nhân cách, giàu ước mơ, thích tìm tòi, khám phá song còn thiếu hiểu biết sâu sắc về xã hội, còn thiếu kinh nghiệm sống, dễ bị lôi kéo, kích động... Đặc biệt trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cơ chế thị trường hiện nay, thế hệ trẻ thường xuyên chịu tác động đan xen của những yếu tố tích cực và tiêu cực, luôn được đặt vào hoàn cảnh phải lựa chọn những giá trị, phải đương đầu với những khó khăn, thách thức. Nếu không được giáo dục kĩ năng sống, nếu thiếu kĩ năng sống các em dễ bị lôi kéo các hành vi tiêu cực, bạo lực, lối sống ích kỉ, thực dụng, dễ bị phát triển lệch lạc về nhân cách. Một trong nguyên nhân dẫn đến các hiện tượng tiêu cực của một bộ phận học sinh phổ thông trong thời gian qua như: đua xe, nghiện hút, bạo lực, ăn chơi sa đoạ... chính là do các em thiếu những kĩ năng sống cần thiết như: kĩ năng xác định giá trị, kĩ năng từ chối, kĩ năng kiên định, kĩ năng giải quyết mâu thuẫn, kĩ năng thương lượng, kĩ năng giao tiếp... Vì vậy, giáo dục kĩ năng sống cho thế hệ trẻ là rất cần thiết, giúp các em rèn luyện hành vi và trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, cộng đồng và Tổ quốc; giúp trẻ có ứng phó tích cực trước các tình huống trong cuộc sống, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với gia đình, bạn bè và mọi người, sống tích cực, chủ động, an toàn, hài hoà và lành mạnh. Đối với học sinh lớp 1, là lớp học đầu tiên của bậc Tiểu học, các em mới gia nhập cuộc sống nhà trường, chưa biết ứng xử với mọi người xung quanh, chưa biết tự tin trước đám đông, lúng túng khi gặp tình huống nguy hiểm có thể xảy ra bất cứ lúc nào Vì vậy, sáng kiến được thực hiện áp dụng cho học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số qua môn đạo đức ngay từ lớp học đầu tiên, bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân là vô cùng cấp thiết. 1 người khác và với xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống trong cuộc sống. Quá trình dạy học tiết Đạo Đức là quá trình tổ chức cho học sinh thực hiện các hoạt động học tập phong phú, đa dạng như : kể truyện theo tranh; quan sát hình ảnh, băng hình, tiểu phẩm; phân tích, xử lý tình huống; chơi trò chơi, đóng tiểu phẩm, múa hát,Thông qua các hoạt động đó sự tương tác giữa GV - HS, HS - GV, HS - HS được tăng cường và học sinh có thể tự phát hiện và chiếm lĩnh tri thức mới. 2. Đạo đức và vị trí môn Đạo đức trong giáo dục. 2.1 Khái niệm về đạo đức - Đạo đức (đạo: lẽ phải, đức: điều tốt lành) là nguyên lí phải theo trong quan hệ giữa người với người, giữa cá nhân với xã hội, tùy theo yêu cầu của chế độ chính trị và kinh tế nhất định. (Từ điển Tiếng Việt – Nhà xuất bản văn hóa và thanh niên, năm 2001) - Đạo đức là những tiêu chuẩn, nguyên tắc được xã hội thừa nhận, quy định hành vi, quan hệ của con người đối với nhau và đối với xã hội, là phẩm chất tốt đẹp của con người do tu dưỡng theo những tiêu chuẩn nhất định mà có. 2.2 Vị trí của môn Đạo đức Môn Đạo đức có vị trí đặc biệt quan trọng mà không một môn học nào có thể thay thế được. Bởi lẽ, chức năng của nó là giáo dục đạo đức cho học sinh Tiểu học với hệ thống chuẩn mực hành vi đạo đức được quy định trong chương trình môn học này. Môn đạo đức thực hiện ba nhiệm vụ sau: + Hình thành cho học sinh ý thức về những chuẩn mực hành vi đạo đức (tri thức và niềm tin), từ đó định hướng cho các em những giá trị đạo đức phù hợp với những chuẩn mực được quy định trong chương trình môn Đạo đức. + Giáo dục cho học sinh những xúc cảm, thái độ, tình cảm đạo đức đúng đắn liên quan đến các chuẩn mực hành vi quy định. + Hình thành cho các em những kĩ năng, hành vi phù hợp với các chuẩn mực và trên cơ sở đó, rèn luyện thói quen đạo đức tích cực. 2.3 Tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số qua môn Đạo đức Đạo đức là một môn học được dạy từ lớp 1 đến lớp 5 ở trường Tiểu học, nhằm giáo dục học sinh bước đầu biết cách sống và ứng xử phù hợp với các chuẩn mực xã hội. Dạy học môn đạo đức kết hợp hài hòa giữa việc trang bị kiến thức với bồi dưỡng tình cảm, niềm tin và hình thành kĩ năng hành vi cho học sinh. Bản thân nội dung môn Đạo đức chứa đựng nhiều nội dung liên quan đến kĩ năng sống như: kĩ năng giao tiếp, ứng xử (với ông bà, cha mẹ, anh chị em, bạn bè, thầy cô giáo và mọi người xung quanh); kĩ năng bày tỏ ý kiến của bản thân, kĩ năng ra quyết định và giải quyết vấn đề phù hợp với lứa tuổi; kĩ năng giữ gìn vệ sinh cá nhân, kĩ năng tự phục vụ và tự quản lí thời gian, kĩ năng thu thập và xử lí thông tin về các vấn đề trong thực tiễn đời sống ở nhà trường, ở cộng đồng có liên quan đến chuẩn mực hành vi đạo đức 3 kĩ năng bày tỏ ý kiến của bản thân, kĩ năng tự phục vụ. Khi tôi nhận lớp, đã sau một thời gian học nhưng vẫn còn một số em đến lớp còn hay khóc. Gọi đọc bài không dám đọc, không dám xung phong phát biểu, nhiều em còn chưa biết nói lời thưa gửi, còn nói trống không, ngại giao tiếp với các bạn và thầy cô giáo. Các em chưa biết cách ứng xử đơn giản nhất với cô giáo và các bạn, nhiều em chưa nói được cụ thể họ và tên mình, họ tên bố mẹ, chưa phân biệt được anh em trong nhà với anh em họ. Một số học sinh gần như ngồi im, chưa biết nói đủ một câu, chưa có ý thức về học tập nghe giảng, chưa biết lĩnh hội kiến thức. Đa số các em là người dân tộc thiểu số sống tại địa bàn sử dụng cả hai ngôn ngữ: tiếng mẹ đẻ và Tiếng Việt, trong đó ngôn ngữ Tiếng Việt còn hạn chế và có nhiều khó khăn, các em nói tiếng phổ thông chưa rành nên khi giảng dạy Kĩ năng sống cho các em rất khó tiếp cận nhất là các kĩ năng giao tiếp, ứng xử đối với ông bà, cha mẹ, anh chị em, bạn bè, thầy cô giáo và mọi người xung quanh, kĩ năng bày tỏ ý kiến của bản thân, kĩ năng giữ gìn vệ sinh cá nhân, kĩ năng tự phục vụ về các vấn đề trong thực tiễn đời sống ở nhà trường, ở nhà có liên quan đến chuẩn mực hành vi đạo đức.. hầu như các em còn hạn chế. Nhà trường, đoàn đội chưa tổ chức được nhiều các hoạt động ngoại khóa như: Thi kể chuyện đạo đức, học tập tấm gương người tốt việc tốt để học sinh được thực hành hành vi đã học vào những tình huống cụ thể trong cuộc sống. Đối với bản thân là giáo viên chủ nhiệm, tôi thấy việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh còn khá nhiều bỡ ngỡ về nội dung giáo dục, phạm vi giáo dục, chưa có kế hoạch cụ thể, rõ ràng nên chưa có được sự phối hợp đồng điệu giữa phụ huynh học sinh. Việc rèn kĩ năng sống qua môn đạo đức còn chưa được chú trọng. Công tác tuyên truyền cho các bậc cha mẹ thực hiện giáo dục kĩ năng sống cho các em chưa nhiều. Trước những khó khăn trên tôi luôn trăn trở làm thế nào giúp các em có được các kĩ năng cơ bản để vận dụng trong cuộc sống hằng ngày. Sau khi điều tra học sinh tôi tiến hành khảo sát phân các nhóm đối tượng như sau: Năm TS Kĩ năng học HS Biết nói năng Bạo dạn trong Ngại giao tiếp, Học sinh học hòa lễ phép, tự tin, giao tiếp trầm lặng, nhập, giao tiếp biết hợp tác nhưng nói nhút nhát chưa rõ và nhận trống không thức chưa ghi nhớ được. SL % SL % SL % SL % Đầu kì I 22 1 4,5 9 41 10 45,5 2 9 Điểm qua một số hành vi đạo đức của các em tôi thấy trạng thái chú ý không bền khi giao tiếp với thói quen ngại suy nghĩ, ngại động não, khả năng ghi nhớ chậm hình thành, khả năng tưởng tượng của các em thiếu sinh động nên tỉ lệ học 5 1. Biện pháp 1: Giáo viên là tấm gương sáng mẫu mực cho học sinh noi theo Rõ ràng, khi tôi được giao trách nhiệm làm chủ nhiệm một lớp, bản thân phải chịu hoàn toàn trách nhiệm trước nhà trường về lớp mình phụ trách, chịu trách nhiệm về mọi quyền lợi cũng như nghĩa vụ học tập, rèn luyện của từng học sinh trong lớp mình. Từ khâu hoạch định kế hoạch cho đến khâu điều hành thực hiện đều từ giáo viên chủ nhiệm. Vì vậy, trước hết bản thân tôi phải có năng lực tổ chức, phải có tình thương và trách nhiệm cao thì mới có thể hoàn thành tốt công tác của mình. Để học sinh nghe và làm đúng những yêu cầu của giáo viên, trước hết các em phải có niềm tin yêu vào thầy cô giáo. Muốn tạo được uy tín đó thì không chỉ có năng lực là đủ mà phải thực sự gương mẫu, là tấm gương sáng cho học sinh noi theo, tất cả những cử chỉ, hành động của chúng ta trong con mắt trẻ thơ luôn là khuôn mẫu. Mọi vấn đề thầy cô giải quyết, mọi việc thầy cô làm, mọi điều thầy cô nói với các em luôn là đúng. Đặc biệt với học sinh lớp 1 các em nghe, làm theo thầy cô còn hơn ông bà, cha mẹ. Các em thường rất hay bắt chước thầy cô của mình từng nét chữ, lời nói đến cả cử chỉ, điệu bộ và nhất là cách ứng xử của cô trước các tình huống. Vì thế bản thân phải luôn mẫu mực trong mọi cử chỉ, hành động, lời nói, phải nghiêm minh, công bằng khách quan trong đánh giá học sinh, cần cụ thể gương mẫu về mọi mặt như: về trang phục và thời gian làm việc; về chào hỏi, xưng hô, xã giao, khi tiếp đón khách, tiếp dân, ứng xử trong sử dụng điện thoại, ứng xử trong liên hoan, chiêu đãi, ứng xử trong nhận và tặng vật lưu niệm, ứng xử đối với những bất đồng, mâu thuẫn, ứng xử trong công bố, tiếp nhận thông tin... Đặc biệt là trong cách xử lý công việc hàng ngày, bản thân tôi không dám tuỳ tiện theo kiểu “đánh trống bỏ dùi”, “đầu voi đuôi chuột”; mà phải thấu đáo, đã nói là làm, làm đến nơi đến chốn và thật thấu tình đạt lý. Có như thế mới thuyết phục được học sinh, mới tập hợp được các em xung quanh mình cùng hoàn thành tốt kế hoạch đã định. Việc đánh giá học sinh cũng cần khách quan và công bằng.Với học sinh Tiểu học nói chung và học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số nói riêng, việc các em được khen trước bạn bè, được cô giáo động viên kịp thời đúng lúc sẽ là động lực rất lớn giúp các em mạnh dạn, tự tin và hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập. Để động viên, khuyến khích học sinh thực hiện tốt việc rèn luyện kĩ năng, ngay từ đầu năm học tôi đã lên kế hoạch rèn luyện cho các em, hằng ngày các em được phân công theo dõi các bạn, ghi vào sổ đến cuối tuần, cuối tháng bình chọn ra những bạn thực hiện tốt, những bạn ngoan, luôn được tôi tuyên dương, khen thưởng. Cuối tháng, tôi luôn dành những phần quà nho nhỏ, bất ngờ cho các em. Khi thì chiếc bút chì hay những viên kẹo, những cục tẩy, viên phấn Tất cả chỉ là sự động viên, khích lệ các em và đó là động lực để các em có sự tiến bộ. Những học sinh chưa biết vâng lời tôi luôn nhắc nhở bằng cử chỉ nhẹ nhàng và cả tình thương yêu. Tôi cho các em thấy sự gần gũi trong mỗi việc làm. Khi đã xóa dần khoảng cách, việc giáo dục sẽ nhẹ nhàng hơn. 7
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giao_duc_ki_nang_song.doc
Bìa SKKN.docx
MỤC LỤC.docx

