Sáng kiến kinh nghiệm Kỹ năng yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ giải quyết vụ, việc dân sự
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Kỹ năng yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ giải quyết vụ, việc dân sự", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Kỹ năng yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ giải quyết vụ, việc dân sự
NGUYỄN THỊ HIỀN – VKSVC, KỸ NĂNG YÊU CẦU TÒA ÁN XÁC MINH, THU THẬP TÀI LIỆU, CHỨNG CỨ GIẢI QUYẾT VỤ, VIỆC DÂN SỰ. I.MỞ ĐẦU Lý do chọn đề tài Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác giao nộp, xuất trình cho Tòa án trong quá trình tố tụng hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do bộ luật này quy định và được Tòa án sử dụng làm căn cứ để xác định các tình tiết khách quan của vụ án cũng như xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp. Mọi hoạt động tố tụng đều tập trung làm rõ những vấn đề cần phải chứng minh bằng việc thu thập và đánh giá chứng cứ. Điều 93 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác giao nộp, xuất trình cho Tòa án trong quá trình tố tụng hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và được Tòa án sử dụng làm căn cứ để xác định các tình tiết khách quan của vụ án cũng như xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp. Việc giao nộp chứng cứ để chứng minh cho các yêu cầu trong các vụ, việc dân sự vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của các đương sự. Tuy nhiên, ở nước ta hiện nay sự hiểu biết pháp luật của các đương sự trong vụ án dân sự còn hạn chế; nhất là đương sự ở những vùng nông thôn và miền núi, họ không có điều kiện mời luật sư để bảo vệ quyền lợi cho mình. Do đó, khi có tranh chấp dân sự xảy ra, họ không biết phải tìm kiếm các chứng cứ ở đâu để cung cấp cho Tòa án và dùng những tài liệu, chứng cứ nào để bảo vệ quyền lợi của mình. Trong khi chúng ta chưa đủ điều kiện quy định việc tham gia tố tụng của luật sư là bắt buộc, dẫn đến tình trạng nhiều đương sự không có khả năng chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. 1 tài liệu sau đây được coi là chứng cứ của vụ việc dân sự: Tài liệu đọc được nội dung là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thẩm quyên cung cấp, xác nhận; Tài liệu nghe được, nhìn được được xuất trình kèm theo văn bản trình bày của người có tài liệu nếu họ tự thu âm, thu hình hoặc văn bản có xác nhận của người đã cung cấp cho người xuất trình về xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản của sự việc liên quan tới việc thu âm, thu hình đó; Thông điệp dữ liệu điện tử được thể hiện dưới hình thức trao đổi dữ liệu điện tử, chứng cứ điện tử, thu điện tử, điện tín, điện báo, Fax và các hình thức tương tự khác theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử; Vật chứng là chứng cứ phải là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc; Lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng được ghi bằng văn bản, băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình, thiết bị khác chứa âm thanh, hình ảnh theo quy định hoặc khai bằng lời tại phiên tòa; Kết luận giám định nếu việc giám định đó được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định; Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định; Kết quả định giá tài sản, kết quả thẩm định giá tài sản được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định; Văn bản ghi nhận, hành vi pháp lý do người có chức năng lập tại chỗ được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định như vi bằng của Thừa phát lại; Văn bản công chứng, chứng thực được thực hiện theo đúng thủ tục do pháp luật quy định; Các nguồn khác mà pháp luật có quy định được xác định là chứng cứ theo điều kiện, thủ tục mà pháp luật quy định. Thứ ba, giao nộp tài liệu, chứng cứ Giao nộp tài liệu, chứng cứ là quyền và nghĩa vụ của đương sự, việc giao nộp tài liệu, chứng cứ là một trong những nội dung quan trọng của tranh tụng cho nên đương sự phải giao nộp đầy đủ và công khai các tài liệu, chứng cứ, trừ trường hợp quy định được giũ bí mật. Xuất phát từ quan điểm đó, Điều 96 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã quy định như sau: + Đương sự có quyền và nghĩa vụ giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án: Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ việc dân sự, đương sự phải giao nộp tài 3 + Gửi tài liệu, chứng cứ cho đương sự khác: Khi đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án thì họ phải sao gửi tài liệu, chứng cứ đó cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự khác; trừ tài liệu chứng cứ được giữ bí mật theo luật định hoặc tài liệu, chứng cứ không thể sao gửi được thì phải thông báo bằng văn bản cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự khác. Thứ tư, xác minh, thu thập chứng cứ Để khắc phục những vướng mắc, bất cập từ thực tiễn công tác giải quyết các vụ việc dân sự nêu trên, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 tiếp tục quy định cho phép Viện kiểm sát có quyền tự thu thập chứng cứ để bảo đảm cho việc thực hiện thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm. Đồng thời, Bộ luật tố tụng dân sự 2015 còn quy định bổ sung thêm cho Viện kiểm sát nhân dân có quyền yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này. Vấn đề đặt ra là Viện kiểm sát thực hiện quyền yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ; trực tiếp xác minh, thu thập chứng cứ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự 2015 trong những trường hợp nào. Để trả lời câu hỏi này cần phải căn cứ vào các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về nhiệm vụ quyền hạn của Kiểm sát viên cũng như các quy định về chứng minh và chứng cứ cùng các quy định về việc phối hợp thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Viện kiểm sát, Tòa án trong việc giải quyết vụ việc dân sự theo Thông tư liên tịch số 02/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ban hành ngày 31/8/2016. Tại Khoản 3 Điều 58 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định: Kiểm sát viên khi được Viện trưởng Viện kiểm sát phân công thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự có nhiệm vụ, quyền hạn “Yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này; thu thập tài liệu, chứng cứ theo quy định tại khoản 6 Điều 97 của Bộ luật này”. 5 thu thập được. Nếu tại phiên tòa, phiên họp, Tòa án mới nhận được chứng cứ đó thì Tòa án công bố chứng cứ theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 254, khoản 1 Điều 303 Bộ luật tố tụng dân sự. Trường hợp việc xác minh, thu thập chứng cứ theo yêu cầu của Kiểm sát viên là không thể thực hiện được hoặc Toà án xét thấy không cần thiết thì chậm nhất là đến ngày hết thời hạn mở phiên tòa, phiên họp theo quyết định của Tòa án, Tòa án thông báo cho Kiểm sát viên bằng văn bản và nêu rõ lý do. + Tại phiên tòa, phiên họp: Khoản 3 Điều 22 Thông tư liên tịch số 02/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC ngày 31/8/2016 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quy định tại phiên tòa, phiên họp Kiểm sát viên yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ phải nêu rõ chứng cứ cần xác minh, thu thập, lý do cần xác minh, thu thập chứng cứ đó. Căn cứ quy định tại điểm c khoản 1 Điều 259 Bộ luật tố tụng dân sự, Thẩm phán, Hội đồng xét xử quyết định chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu của Kiểm sát viên. Trường hợp Thẩm phán, Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu của Kiểm sát viên thì phải nêu rõ lý do, Kiểm sát viên tiếp tục tham gia phiên tòa, phiên họp. Yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ của Kiểm sát viên tại phiên tòa, phiên họp và việc Thẩm phán, Hội đồng xét xử chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu của Kiểm sát viên phải được ghi vào biên bản phiên tòa, phiên họp. Trường hợp đã tạm ngừng phiên tòa, phiên họp nhưng việc xác minh, thu thập chứng cứ theo yêu cầu của Kiểm sát viên là không thể thực hiện được thì trước ngày Tòa án tiếp tục xét xử vụ án, Tòa án thông báo cho Kiểm sát viên bằng văn bản và nêu rõ lý do. b. Trực tiếp xác minh, thu thập chứng cứ: - Khi được Viện trưởng Viện kiểm sát phân công thực hiện kiểm sát đối với các bản án, quyết định dân sự sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật hoặc trong quá trình giải quyết đơn đề nghị xem xét bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, Kiểm sát viên có quyền 7 2. Một số kỹ năng yêu cầu Tòa án trong việc thu thập chứng cứ, tài liệu Kiểm sát viên cần chú ý Với tư cách là cơ quan tiến hành tố tụng, trong những năm qua công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự của Viện kiểm sát nhân dân các cấp đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn những tồn tại nhất định đó là số bản án, quyết định sơ thẩm bị Tòa cấp phúc thẩm cải, sửa và hủy án vẫn còn chiếm tỷ lệ cao; đơn khiếu nại đối với số bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật có vi phạm vẫn còn nhiều nhưng chưa được Viện kiểm sát kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm kịp thời. Tồn tại này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân về thu thập chứng cứ. Chứng cứ được thu thập không đầy đủ hoặc phiến diện thiếu khách quan, không đúng với quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Việc này có phần trách nhiệm của Kiểm sát viên kiểm sát giải quyết vụ án. Để khắc phục tình trạng này, trong quá trình thực hiện thẩm quyền yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ; trực tiếp thu thập chứng cứ, Kiểm sát viên cần lưu ý một số vấn đề sau: Thứ nhất, phải chú trọng việc nghiên cứu hồ sơ, đánh giá chứng cứ. Đây là vấn đề cốt lõi để Kiểm sát viên xác định chứng cứ có trong hồ sơ đã đầy đủ, khách quan hay chưa, từ đó đề ra được hướng yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập bổ sung. Điều 220 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định trong trường hợp Viện kiểm sát tham gia phiên tòa theo quy định tại khoản 2 Điều 21 của Bộ luật này thì Tòa án cấp sơ thẩm gửi hồ sơ vụ án cùng với quyết định đưa vụ án ra xét xử cho Viện kiểm sát cùng cấp ngay sau khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử; Điều 366 quy định Tòa án phải gửi ngay quyết định mở phiên họp giải quyết việc dân sự và hồ sơ việc dân sự cho Viện kiểm sát cùng cấp để nghiên cứu. Tòa án cấp phúc thẩm gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát cùng cấp ngay sau khi Tòa án thụ lý. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án và trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ việc dân sự, Viện kiểm sát phải trả lại hồ sơ cho Tòa án. Như vậy, trong khoảng thời gian quy định trên, Kiểm sát viên được phân 9 tài liệu, chứng cứ. Khi đưa ra yêu cầu cần cụ thể, có tính thuyết phục để Tòa án chấp nhận hoãn phiên tòa tiếp tục thu thập chứng cứ xây dựng hồ sơ vụ án, đảm bảo đủ chứng cứ giải quyết vụ án. Thứ ba, khi xét thấy cần thiết phải thu thập chứng cứ để xem xét kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm, Kiểm sát viên phải thực hiện đúng theo quy định tại các điều 98, 99, 100, 101, 102 và 106 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, cụ thể: + Lấy lời khai của đương sự, người làm chứng: Chỉ tập trung vào những tình tiết mà đương sự khai chưa đầy đủ, rõ ràng. Kiểm sát viên tự mình hoặc Kiểm tra viên ghi lại lời khai vào biên bản; người khai tự đọc lại hay nghe đọc lại và ký tên hoặc điểm chỉ. Biên bản phải có chữ ký của người lấy lời khai, người ghi biên bản, nếu biên bản được ghi thành nhiều trang rời nhau thì phải ký vào từng trang và đóng dấu giáp lai. Trường hợp biên bản ghi lời khai được lập ngoài trụ sở Viện kiểm sát thì phải có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc Công an xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi lập biên bản. Việc lấy lời khai của đương sự là người chưa đủ sáu tuổi hoặc người mất năng lực hành vi dân sự; Đương sự là người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm phải được tiến hành với sự có mặt của người đại diện hợp pháp của đương sự đó. Việc lấy lời khai của người làm chứng chưa đủ mười tám tuổi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi phải được tiến hành với sự có mặt của người đại diện theo pháp luật hoặc người đang thực hiện việc quản lý, trông nom người đó. + Đối chất: Khi xét thấy có mâu thuẫn trong lời khai của các đương sự, người làm chứng, Kiểm sát viên tiến hành đối chất giữa các đương sự với nhau, giữa đương sự với người làm chứng hoặc giữa những người làm chứng với nhau. Việc đối chất phải được lập thành biên bản, có chữ ký hoặc điểm chỉ của những người tham gia đối chất. + Xem xét, thẩm định tại chỗ: Đây là hoạt động có vị trí rất quan trọng. 11
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_ky_nang_yeu_cau_toa_an_xac_minh_thu_th.doc

