Sáng kiến kinh nghiệm Giáo dục tinh thần yêu nước cho học sinh trường THCS Nguyễn Trãi qua một số di tích lịch sử địa phương
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Giáo dục tinh thần yêu nước cho học sinh trường THCS Nguyễn Trãi qua một số di tích lịch sử địa phương", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Giáo dục tinh thần yêu nước cho học sinh trường THCS Nguyễn Trãi qua một số di tích lịch sử địa phương
UBND HUYỆN KRÔNG ANA PHÒNG GIÁO GD-ĐT KRÔNG ANA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: GIÁO DỤC TINH THẦN YÊU NƯỚC CHO HỌC SINH TRƯỜNG THCS NGUYỄN TRÃI QUA DI TÍCH LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG Lĩnh vực: Môn Lịch sử Họ và tên: Nguyễn Thị Tài Đơn vị công tác: Trường THCS Nguyễn Trãi Krông Ana, tháng 3 năm 2018 Nguyễn Thị Tài- Giáo viên Trường THCS Nguyễn Trãi- Huyện Krông Ana 1 phụ huynh, sự thờ ơ của gia đình đối với con em mình, sự lệch lạc về tư tưởng ngày càng nhiều trong thời đại công nghệ thông tin, những tệ nạn xã hội thâm nhập sâu vào lứa tuổi học đường, sự suy thoái về đạo đức ở lứa tuổi học sinh ngày càng trầm trọng. Đó là hồi chuông báo động quá trình tha hóa về đạo đức, nhân cách, sự hủy hoại các giá trị truyền thống tốt đẹp mà cha ông ta đã gây dựng bao đời nay. Xuất phát từ thực tế đó, nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn lịch sử nói chung và bộ môn lịch sử địa phương nói riêng, giáo dục cho học sinh lòng biết ơn đối với những người đã hy sinh quên mình cho đất nước,. Bản thân tôi đã chọn đề tài“Giáo dục tinh thần yêu nước cho học sinh trường THCS Nguyễn Trãi qua một số di tích lịch sử địa phương”trong chương trình lịch sử địa phương nhằm giúp cho học sinh hiểu sâu sắc hơn về quá trình đấu tranh của thế hệ ông cha ta, đồng thời giúp học sinh hướng đến sự biết ơn vô hạn đối với những người anh hùng đã ngã xuống vì sự bình yên của đất nước. 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài. - Giáo dục tinh thần yêu nước cho học sinh trường THCS Nguyễn Trãi thông qua một số nội dung trong chương tình lịch sử địa phương tỉnh Đăk Lăk. - Giúp học sinh biết được ông cha ta đã bị kẻ thù đàn áp, chèn ép, áp bức và tinh thần chiến đấu anh dũng của thế hệ cha ông, từ đó giáo dục các em lòng căm thù đối với giặc ngoại xâm. - Thể hiện lòng biết ơn với những người có công với dân tộc, với đất nước bằng những việc làm và hành động cụ thể tại địa phương. Đồng thời xác định rõ vai trò trách nhiệm của mình với đất nước quê hương. - Góp phần thực hiện việc nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập đối với bộ môn lịch sử nói chung và lịch sử địa phương nói riêng tại trường THCS Nguyễn Trãi. 3. Đối tượng nghiên cứu. - Giáo dục tinh thần yêu nước cho học sinh trường THCS Nguyễn Trãi qua quá trình trải nghiệm, tham quan một số di tích lịch sử tại Nhà đày Buôn Ma Thuột và Bảo tàng Đăk Lăk. 4. Giới hạn của đề tài - Để thực hiện được đề tài này, bản thân tôi đã nghiên cứu một số nội dung bài học trong chương trình Lịch sử địa phương khối 6,7,8,9. - Đối tượng là học sinh khối 6,7,8,9 trường THCS Nguyễn Trãi - Thời gian nghiên cứu: Năm học 2015-2016, 2016-2017. 5. Phương pháp nghiên cứu a. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận - Phương pháp phân tích, tổng hợp tài liệu (đọc tài liệu, sách giáo khoa phân tích nội dung từng phần, từng bài để phát hiện ở nội dung nào có thể giáo dục cho học sinh) - Nghiên cứu lịch sử địa phương, lịch sử Đảng bộ của Đăk Lăk b. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn - Phương pháp quan sát, trải nghiệm thực tế tại nhà đày Buôn Ma Thuột, bảo tàng Đăk Lăk c. Phương pháp thống kê toán học II. PHẦN NỘI DUNG Nguyễn Thị Tài- Giáo viên Trường THCS Nguyễn Trãi- Huyện Krông Ana 3 * Thực trạng học tập bộ môn Lịch sử hiện nay ở trường phổ thông: Bộ môn Lịch sử ở trường phổ thông với nhiệm vụ cung cấp khối lượng kiến thức tương đối phong phú về lịch sử thế giới và lịch sử dân tộc cần đặt ra yêu cầu cao mới thực hiện được nhiệm vụ đó, mặt khác do đặc trưng của bộ môn lịch sử nó gây ra nhiều khó khăn cho quá trình nhận thức của các em học sinh. Vì đối tượng lịch sử là quá khứ đã diễn ra, không thể tái hiện, không thể “trực quan sinh động”, cũng không thể trực tiếp quan sát được. Lịch sử được phản ánh qua các nguồn sử liệu, vấn đề đặt ra là làm sao để các em nhận thức được lịch sử một cách chính xác, chân thực như nó đã tồn tại. Chất lượng dạy học môn lịch sử hiện nay đặt ra vấn đề cần suy nghĩ, số lượng học sinh yêu thích môn lịch sử rất ít, nhiều phụ huynh, học sinh coi lịch sử là môn học “phụ”, nhận thức của các em về môn lịch sử sai lệch, các em không nhớ hoặc nhớ không chính xác thời gian, địa điểm, tính chất của các sự kiện và hiện tượng lịch sử. Trong những năm gần đây, chất lượng bộ môn lịch sử rất thấp. Theo tôi nguyên nhân của những tình trạng trên có thể được xác định là do: + Một là: Trình độ giáo viên chưa đều và thật sự không phải giáo viên nào cũng tâm huyết với nghề nghiệp. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình giảng dạy và chất lượng giáo dục nói chung và bộ môn lịch sử nói riêng. + Hai là Giáo viên chưa mạnh dạn trong quá trình đổi mới phương phương pháp dạy học. + Ba là: Trang thiết bị phục vụ cho giảng dạy bộ môn ở nhà trường còn thiếu, không đủ lược đồ, bản đồ để phục vụ cho tiết học, bài học. + Bốn là: Giáo viên chưa bám sát chuẩn kiến thức kĩ năng bộ môn do Bộ Giáo dục ban hành dẫn đến sai lệch về kiến thức. + Kiến thức lịch sử địa phương chưa được đưa vào sách giáo khoa, tài liệu biên soạn viết rất khó dạy, nội dung còn sơ sài và nói chung chung, nội dung chưa phong phú, chưa có sự bổ sung, điều chỉnh cập nhật điều này cũng khiến cho giáo viên và học sinh ít có sự hiểu biết về địa phương nơi mình sinh sống. Đối với học sinh ý thức học tập môn sử chưa cao, đa phần các em chưa xác định rõ ràng mục tiêu học tập, chưa thực sự cố gắng trong học tập và làm bài tập, đang còn đối phó, chưa dám mạnh dạn khi giáo viên yêu cầu trả lời câu hỏi, chỉ lược đồ, bản đồ. Đặc biệt quan niệm ăn sâu trong tiềm thức của phụ huynh và học sinh môn sử chỉ là môn học phụ, không quan trọng nên có thái độ thờ ơ với lịch sử dẫn đến một thực tế đau lòng là học sinh không hiểu gì về lịch sử Việt Nam, hàng ngàn bài thi lịch sử của học sinh những năm vừa qua bị điểm 0. Qua tìm hiểu của bản thân tôi và đồng nghiệp trên địa bàn huyện tôi nhận thấy một số nguyên nhân chủ yếu sau: - Môn sử có đặc thù riêng, nhiều sự kiện, khó nhớ. - Học sinh luôn quan niệm là môn phụ, không có sự hướng nghiệp rõ ràng khi lựa chọn ôn thi. - Phụ huynh thờ ơ và hướng con em mình học các môn tự nhiên. - Giáo viên chưa có phương pháp phù hợp nên không thu hút được các em trong giờ học. Việc vận dụng đề tài này vào việc giảng dạy lịch sử tại trường THCS Nguyễn Trãi bản thân tôi đã có những thành công nhất định, học sinh giờ đây đã ý thức Nguyễn Thị Tài- Giáo viên Trường THCS Nguyễn Trãi- Huyện Krông Ana 5 *Tầm quan trọng của các di tích lịch sử đối với việc giáo dục truyền thống đạo đức cho học sinh +Về giáo dưỡng: Di tích lịch sử giáo dục cho học sinh lòng kính yêu, khâm phục các anh hùng chiến sĩ yêu nước. Di tích lịch sử địa phương cũng như cả nước phản ánh các sự kiện lịch sử làm cho học sinh tự hào, yêu quý về truyền thống anh hùng trong cuộc đấu tranh bảo vệ quê hương đất nước. Học sinh sẽ có những nhận xét của mình về quá trình đấu tranh kiên cường, bất khuất của ông cha ta trong thời chiến. Từ đó sẽ nhận thức được chúng ta có được cuộc sống bình yên và hạnh phúc như hôm nay là nhờ có tinh thần yêu nước chiến đấu chống kẻ thù xâm lược của thế hệ cha ông. Tóm lại việc sử dụng các di tích lịch sử địa phương cũng như cả nước trong quá trình dạy học lịch sử là phát huy ưu thế, sở trường của bộ môn lịch sử, góp phần giáo dục thế hệ trẻ truyền thống đạo đức, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của địa phương nói riêng và của cả dân tộc nói chung. *Về giáo dục: - Giáo dục cho các em lòng căm thù đối với bọn đế quốc xâm lược, yêu nền độc lập, yêu quê hương đất nước. - Giáo dục lòng biết ơn, khâm phục đối với cha ông ta trong cuộc kháng chiến, họ đã không quản ngại hy sinh, đấu tranh kiên cường gian khổ để giành độc lập. - Giáo dục cho các em lòng tự hào, tự tôn dân tộc, cố gắng vươn lên trong học tập để xây dựng quê hương đất nước, tiếp bước truyền thống cha ông ghi thêm những trang sử vẻ vang trong thời kì mới. * Về phát triển: - Bồi dưỡng cho các em năng lực nhận thức phục vụ cho việc học tốt các bộ môn nói chung và lịch sử nói riêng như tư duy, phân tích, so sánh, nhận định các sự kiện lịch sử. - Phát triển kĩ năng thực hành như đọc bản đồ, vẽ sơ đồ, sư tầm tài liệu, tranh ảnh, phân tích, đánh giá các sự kiện lịch sử. b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp - Tổ chức cho học sinh tham quan thực địa tại nhà đày Buôn Ma Thuột và Bảo tàng Đăk Lăk thông qua chương trình lịch sử điạ phương. - Những giải pháp nói trên của đề tài nhằm giúp học sinh thoát ra khỏi phương pháp học tập theo lối truyền thống và phát huy phương pháp học tập mới đó là tư duy, sáng tạo, biết phân tích, nhận định, đánh giá vấn đề, liên hệ những vấn đề đã học vào thực tế một cách sinh động. Đặc biệt là tạo cho các em học sinh một tâm lí thoải mái, hứng thú và thích học tập đối với bộ môn Lịch sử. Đặc biệt là chương trình lịch sử địa phương giúp các em hiểu được những hy sinh to lớn của ông cha ta,những khó khăn gian khổ mà cha ông ta đã phải chịu đựng, tinh thần thép và ý chí đấu tranh ngoan cường để dành độc lập trong cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm. - Giúp học sinh thay đổi hình thức, phương pháp học tập trước đây, làm cho giờ học bớt căng thẳng, không còn nặng nề, tạo cảm giác thoải mái, dễ chịu, học sinh lĩnh hội kiến thức một cách nhẹ nhàng. - Tạo cho học sinh sự tìm tòi, sáng tạo, rèn luyện cho học sinh cơ hội rèn luyện bản thân Nguyễn Thị Tài- Giáo viên Trường THCS Nguyễn Trãi- Huyện Krông Ana 7 Học sinh trường THCS Nguyễn Trãi đến tham quan tại nhà đày Buôn Ma Thuột Hình ảnh nhà đày Buôn Ma Thuột Nhà đày Buôn Ma Thuột (nhà tù Buôn Ma Thuột) là nơi từng giam giữ, đày ải tù nhân chính trị chủ yếu của các tỉnh Trung Kỳ. Nhà đày được nhiều người biết đến không những vì kết cấu kiến trúc hay vì đòn roi tra tấn tàn bạo của địch, mà còn ở phong trào đấu tranh kiên cường của các thế hệ tù nhân chính trị. Từ năm 1980, Nhà đày Buôn Ma Thuột đã được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia, và trở thành điểm tham quan du lịch tại tỉnh Đăk Lăk. Nhà đày Buôn Ma Thuột vào khoảng năm 1900, một nhà lao đã được thực dân Pháp xây dựng lên ở Cao nguyên Đắk Lắk dùng để giam giữ tù nhân chính trị, bởi địa hình nơi đây lúc bấy giờ bị bao vây giữa bốn bề núi rừng rậm rạp, nhiều thú dữ, khí hậu khắc nghiệt, ít người lui tới nên tù nhân khó bề trốn thoát. Đến những năm 1930-1931, số lượng tù nhân tăng cao theo phong trào chống thực dân tại Đông Dương, do đó Pháp thiết lập Nhà đày Buôn Ma Thuột trên cơ sở mở Nguyễn Thị Tài- Giáo viên Trường THCS Nguyễn Trãi- Huyện Krông Ana 9 Hình ảnh nhà đày nhìn từ trên cao và hình ảnh học sinh trường THCS Nguyễn Trãi đang nghe hướng dẫn viên nhà đày thuyết trình(2016-2017) Tại đây thực dân Pháp thi hành chính sách tra tấn hết sức tàn bạo, tất cả tù nhân đều bị đóng dấu trên lưng, bị đánh đập tàn nhẫn, lao động khổ sai, hàng ngày họ phải đi lao dịch nặng nề như đi xây cây cầu Krông Ana, xây các đồn bốt cho giặc, làm đường 14 đia Sài Gòn..vv. Bữa ăn hàng ngày chỉ có cơm hẩm với muối, bất cứ lúc nào tù nhân cũng có thể bị phạt vạ vô căn cứ hoặc bị thủ tiêu giết chết. Nguyễn Thị Tài- Giáo viên Trường THCS Nguyễn Trãi- Huyện Krông Ana 11 xuyên phải lao động khổ sai, ăn uống thì bẩn thỉu, thiếu thốn gây ra rất nhiều bệnh tật. Ví dụ: Ngày ăn700 g gạo, gạo trộn lẫn sạn, chúng dùng báng súng, roi có quất dây thép ở đầu để tra tấn..vv. Mặc dù vậy tinh thần đấu tranh của nhân dân ta trong các nhà đày trong đó có nhà Đày Buôn Ma Thuột là vô cùng quyết liệt, các đồng chí vẫn không lùi bước, tìm mọi cách để đấu tranh và bí mật hoạt động cách mạng. Hình thức đấu tranh rất phong phú, đa dạng nhưng lúc đầu thì gặp rất nhiều khó khăn. Thực dân Pháp đưa những người bản địa là đồng bào dân tộc thiểu số làm quản ngục để lợi dụng sự bất đồng về ngôn ngữ để ngăn chặn không cho tù nhân liên lạc ra bên ngoài. Nhưng bọn chúng đâu có biết chính âm mưu của chúng lại càng thúc đẩy tinh thần cho các tù nhân quyết tâm học tiếng bản địa với phương châm, người biết nhiều dạy người biết ít, người biết ít dạy người không biết. Tù đó nhà Đày được coi như một trường học. Cũng nhờ học tiếng bản địa mà các tù nhân đã cảm hóa được một số quản ngục là người Ê đê như ông Y Blốc Ê ban, Y Jônh, Y Bun Knông, Y Bih Alê ô, Y Som Ê ban, Y Blốc Êban Ban chỉ huy quân sự đầu tiên của Đăk Lăk (Hình ảnh trưng bày tại nhà Đày) Từ trái sang phải:Y Wung Niê Kdăm, YNgông Niê,Y Blôk Êban Nguyễn Thị Tài- Giáo viên Trường THCS Nguyễn Trãi- Huyện Krông Ana 13
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_giao_duc_tinh_than_yeu_nuoc_cho_hoc_si.doc

