Sáng kiến kinh nghiệm Bồi dưỡng giao lưu "Tiếng Việt của chúng em" dành cho học sinh Dân tộc thiểu số
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Bồi dưỡng giao lưu "Tiếng Việt của chúng em" dành cho học sinh Dân tộc thiểu số", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Bồi dưỡng giao lưu "Tiếng Việt của chúng em" dành cho học sinh Dân tộc thiểu số
SKKN: Kinh nghiệm bồi dưỡng Giao lưu“Tiếng Việt của chúng em” dành cho học sinh DTTS. I. Phần mở đầu 1. Lí do chọn đề tài Đất nước Việt Nam với 54 dân tộc anh em, mỗi dân tộc có một phong tục, tập quán và chữ viết riêng, nhưng điểm chung là tất cả các dân tộc đều sử dụng tiếng Việt để giao tiếp và học tập. Trong những năm gần đây, giao lưu “Tiếng Việt của chúng em” dành cho học sinh dân tộc thiểu số (DTTS) đã trở thành hoạt động thiết thực của ngành Giáo dục và Đào tạo, được áp dụng rộng rãi ở cấp tiểu học. Hoạt động này không những chia sẻ kinh nghiệm giảng dạy, học tập và rèn luyện kỹ năng tiếng Việt cho các em DTTS tại các trường tiểu học trong toàn huyện, toàn tỉnh, mà còn là một sân chơi bổ ích, góp phần phát triển các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết, giúp học sinh yêu thích môn học Tiếng Việt. Đồng thời xoá đi rào cản về ngôn ngữ giữa tiếng Việt và tiếng dân tộc, giúp các em được giao lưu, học hỏi, tự tin, mạnh dạn hơn trong học tập và sinh hoạt. Chính vì vậy, để hoạt động giao lưu “Tiếng Việt của chúng em” dành cho học sinh DTTS tại các cơ sở có chất lượng đòi hỏi các nhà trường cần chú trọng, quan tâm giảng dạy môn Tiếng Việt nói chung và công tác bồi dưỡng các kĩ năng sử dụng tiếng Việt nói riêng là vô cùng quan trọng. Đối với bản thân, nhiều năm được nhà trường cũng như Lãnh đạo Phòng Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) phân công nhiệm vụ bồi dưỡng các em học sinh DTTS tham gia giao lưu “Tiếng Việt của chúng em” cấp huyện, cấp tỉnh. Mặc dù đối tượng học sinh khi tham gia giao lưu các cấp đã được chọn lọc trong tổng số học sinh DTTS của toàn trường (đối với cấp huyện) và từ các đơn vị (đối với cấp tỉnh) nhưng tôi thấy: phần lớn kĩ năng nói, viết, sử dụng tiếng Việt của các em còn hạn chế, thiếu tự tin trước tập thể; nhiều em thực sự chưa có năng khiếu về múa, hát hoặc hùng biện,... Đó là khó khăn lớn nhất của bản thân cũng như giáo viên thực hiện công tác bồi dưỡng. Là một cán bộ quản lý, tôi luôn băn khoăn, suy nghĩ làm thế nào để khắc phục khó khăn trên để luôn giữ vững và phát huy các thành tích đã đạt được, góp phần nâng cao chất lượng học tập các môn học, giúp các em DTTS yêu tiếng Việt hơn và mạnh dạn, tự tin trước tập thể. Xuất phát từ những lí do trên, năm học này tôi quyết định chọn đề tài “Kinh nghiệm bồi dưỡng Giao lưu Tiếng Việt của chúng em dành cho học sinh dân tộc thiểu số” để nghiên cứu. 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài Giúp học sinh dân tộc thiểu số của nhà trường phát triển tốt các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết; yêu thích tiếng Việt và mở rộng vốn hiểu biết về tiếng Việt. Đinh Thị Minh Phượng - Trường Tiểu học Trần Phú 1 SKKN: Kinh nghiệm bồi dưỡng Giao lưu“Tiếng Việt của chúng em” dành cho học sinh DTTS. huyện, cấp tỉnh); tiến hành giao lưu giữa học sinh các lớp trong khối, giữa các trường trong huyện và giữa các huyện trong tỉnh. Tổ chức chấm điểm cho mỗi nội dung giao lưu để tạo không khí thi đua giữa các lớp, các trường, các huyện, các tỉnh. Đắk Lắk là nơi hội tụ 47 dân tộc anh em cùng chung sống, tạo cho mảnh đất này có nền văn hóa vô cùng đặc sắc và đa dạng. Chiếm hơn 32% tổng dân số trên địa bàn tỉnh, con em đồng bào dân tộc thiểu số sống trải đều khắp từ nông thôn đến thành thị.Theo thống kê đầu năm học 2017-2018, tỉ lệ học sinh DTTS cấp tiểu học chiếm số lượng cao nhất (trên 40% số học sinh toàn tỉnh). Vì thế tỉnh Đắk Lắk đã có nhiều biện pháp tích cực trong việc dạy tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số như: chỉ đạo dạy tăng thời lượng môn Tiếng Việt cho học sinh lớp Một từ 350 tiết lên 500 tiết; tổ chức dạy học theo tài liệu Bài tập bổ trợ tiếng Việt cho học sinh các lớp 1,2,3; ưu tiên dạy 2 buổi/ngày đối với học sinh lớp 1,.... Đặc biệt, quan tâm chỉ đạo các đơn vị trường học từ cấp trường đến cấp tỉnh đẩy mạnh hoạt động giao lưu “Tiếng Việt của chúng em”. Tính đến nay, Sở GD&ĐT Đắk Lắk đã tổ chức nhiều hoạt động sáng tạo, thiết thực, trong đó có 03 lần tổ chức hoạt động giao lưu “Tiếng Việt của chúng em” cho học sinh DTTS cấp tỉnh. Hiện nay, toàn ngành đang tiếp tục thực hiện mục tiêu đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục - đào tạo theo tinh thần Nghị quyết 29-NQ/TW, nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục, nhất là giáo dục học sinh dân tộc, Đề án 1008/QĐ-CP về tăng cường tiếng Việt cho trẻ mầm non và học sinh tiểu học vùng dân tộc thiểu số” giai đoạn 2016 - 2020, định hướng đến năm 2025 của Chính phủ thực sự có ý nghĩa. Việc đưa tiếng Việt đến với học sinh tiểu học nói chung và học sinh dân tộc thiểu số nói riêng là nhiệm vụ hết sức quan trọng, góp phần tạo nền tảng vững chắc để các em tiếp thu kiến thức của những môn học khác và giao tiếp tự tin hơn. Để tiếp thêm tình yêu tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số, phát triển cho các em bốn kỹ năng nghe, nói, đọc, viết và kĩ năng sử dụng tiếng Việt một cách thành thạo, giúp các em tự tin, mạnh dạn khi đến trường, hàng năm trường Tiểu học Trần Phú đã chú trọng hoạt động giao lưu “Tiếng Việt của chúng em” dành cho học sinh DTTS và tổ chức dạy học tăng thời lượng đối với môn Tiếng Việt cho các em học sinh tại Phân hiệu Buôn Trấp. 2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu Trường Tiểu học Trần Phú là một đơn vị hàng năm có sĩ số học sinh đông nhất toàn huyện, trong đó tỉ lệ học sinh DTTS chiếm khá cao (219/721 em, tỉ lệ 33,3%) và có một điểm trường với 100% học sinh là người dân tộc thiểu số tại chỗ. Mặc dù nhà trường luôn nhận được sự quan tâm của các cấp, đội ngũ giáo viên có Đinh Thị Minh Phượng - Trường Tiểu học Trần Phú 3 SKKN: Kinh nghiệm bồi dưỡng Giao lưu“Tiếng Việt của chúng em” dành cho học sinh DTTS. Thứ tư, bản thân một số giáo viên năng khiếu hạn chế, chưa làm tốt công tác phối hợp với các đoàn thể để tổ chức phong phú hoạt động tập thể. Vì thế, chưa khích lệ, lôi cuốn học sinh tham gia một cách tích cực, dẫn đến các em còn rụt rè, nhút nhát hoặc chưa hòa đồng với bạn bè. Thứ năm, học sinh DTTS vốn tiếng Việt và năng khiếu hạn chế, thiếu mạnh dạn trước tập thể nên các em thực hiện các phần chào hỏi hay năng khiếu của cả đồng đội chưa đều, chưa làm chủ phần trình bày của mình. Hơn nữa, các đội chưa chú ý tuyển chọn học sinh theo hình thức “đa dân tộc” để làm phong phú sắc màu của đội tuyển. Một số giáo viên chưa hiểu rõ phong tục, tập quán của các dân tộc thiểu số, đặc biệt là dân tộc thiểu số phía Bắc (Tày, Nùng, Mường, Thái) nên trong công tác bồi dưỡng chưa truyền được cảm hứng để các em thâm nhập một cách hiệu quả cũng như khó khăn trong tìm kiếm trang phục của mỗi dân tộc. Từ những khó khăn trên, các cơ sở giáo dục trong địa bàn huyện nhiều năm qua đã tổ chúc tập huấn, bồi dưỡng chuyên đề cho giáo viên về việc tăng cường dạy tiếng Việt cho học sinh DTTS, tổ chức các hoạt động thiết thực, bổ ích như giao lưu tiếng Việt,... Riêng trường TH Trần Phú cũng đã thực hiện nhiều giải pháp để nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt và đạt hiệu quả cao trong các đợt giao lưu “Tiếng Việt của chúng em” dành cho học sinh DTTS cấp huyện, cấp tỉnh. 3. Nội dung và hình thức của giải pháp 3.1. Mục tiêu của giải pháp - Tìm ra nguyên nhân cơ bản dẫn đến học sinh dân tộc thiểu số yếu về kỹ năng nói, viết tiếng Việt và một số biện pháp phù hợp trong việc rèn bồi dưỡng học sinh dân tộc thiểu số có kĩ năng sử dụng tiếng Việt linh hoạt, chính xác. - Nâng cao chất lượng học tập nói chung; chất lượng nghe, nói, đọc, viết tiếng Việt của các em học sinh dân tộc thiểu số nói riêng. - Nâng cao chất lượng học sinh tham gia “Tiếng Việt của chúng em” dành cho HSDTTS ở các cấp. 3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp a) Nâng cao nhận thức về mục đích, ý nghĩa của hoạt động giao lưu tiếng Việt dành cho học sinh dân tộc thiểu số Một trong những đặc điểm của học sinh DTTS nói chung và học sinh DTTS Tây Nguyên nói riêng: vốn tiếng Việt và môi trường giao tiếp hạn hẹp, nhất là về cách phát âm. Ở nhà, đa số phụ huynh thường giao tiếp với con em bằng tiếng mẹ đẻ. Do đó, kĩ năng sử dụng tiếng Việt của các em phát triển chậm, vấn đề “rào cản” Đinh Thị Minh Phượng - Trường Tiểu học Trần Phú 5 SKKN: Kinh nghiệm bồi dưỡng Giao lưu“Tiếng Việt của chúng em” dành cho học sinh DTTS. Các thành viên trong đội tự giới thiệu về mình, về đội mình bằng tiểu phẩm, múa hát, hò, vè, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số. + Phần 2: Phần kiến thức tiếng Việt (20 phút) Mỗi học sinh nghe - viết một bài thơ hoặc đoạn văn bằng kiểu chữ viết tự chọn. Riêng học sinh lớp 1 viết một số tiếng, từ (cỡ chữ nhỡ) và câu ứng dụng (cỡ chữ nhỏ) theo mẫu chữ quy định. + Phần 3: Phần năng khiếu (10 phút). Các thành viên trong đội tham gia trình bày bằng tiểu phẩm hoặc hát múa. + Phần 4: Phần hùng biện (5 phút) Mỗi đội cử 01 đại diện nói về tình cảm của em với thầy cô, bạn bè trong lớp. Các nội dung trên sẽ được linh động trong từng khối lớp. Riêng khối 1 và 2 chỉ tham gia ba nội dung đầu, phần hùng biện không bắt buộc. Số lượng học sinh tham gia ít nhất 05 em/khối. So với kế hoạch của Phòng GD&ĐT, tôi đã xây dựng nội dung kế hoạch giao lưu cấp trường theo hướng mở, linh động giữa các khối, không tạo áp lực thi cử mà chủ yếu giúp các em được giao lưu với bạn bè, được nói, viết và sử dụng tiếng Việt trước tập thể nhằm tạo một sân chơi bổ ích, lí thú. c) Thành lập đội tuyển và hội đồng bồi dưỡng - Thành lập đội tuyển : Để hoàn thành các phần thi khi tham gia giao lưu “Tiếng Việt của chúng em” đòi hỏi mỗi học sinh DTTS phải đọc thông thạo, phát âm chuẩn, viết đúng lỗi chính tả, nắm chắc kiến thức cơ bản môn Tiếng Việt và thực sự có năng khiếu về hát hoặc múa, diễn xuất,... Vì thế, việc lựa chọn học sinh đảm bảo đáp ứng các phần thi trên để bồi dưỡng là vô cùng khó khăn. Ngoài ra, trường chúng tôi quan tâm đến việc thành lập đội tuyển đa sắc màu về cả trang phục, phong tục, tập quán của nhiều dân tộc thiểu số đến từ các vùng miền khác nhau nhằm tạo sự phong phú, đa dạng trong phần thi “giao lưu đồng đội”. Chẳng hạn: Toàn trường có 219 em DTTS, trong đó: Ê-đê 154 em, Thái 04 em, Mường 56 em, Nùng 03 em, Sán chỉ 01 em và H’rê có 01 em. Song khi thành lập đội tuyển, chúng tôi không chọn tập trung các em dân tộc Mường, Ê-đê mà chọn trải đều 06 em với sáu loại hình dân tộc khác nhau và chọn có số dư so với số lượng quy định để trong quá trình bồi dưỡng có phương án loại trừ một số em chậm. Đinh Thị Minh Phượng - Trường Tiểu học Trần Phú 7 SKKN: Kinh nghiệm bồi dưỡng Giao lưu“Tiếng Việt của chúng em” dành cho học sinh DTTS. - Xây dựng nội dung kịch bản: Tìm nét đặc trưng về phong tục tập quán, văn hóa của từng dân tộc để đưa vào nội dung kịch bản. Lựa chọn trang phục phù hợp, đúng nguồn gốc mỗi DTTS. Chẳng hạn: + Dân tộc Nùng: có làn điệu dân ca đậm đà bản sắc dân tộc đó là hát Sli. Nghề nghiệp chính là trồng lúa, ngô và cây hồi ; món ăn độc đáo là món "Khau nhục". Hàng năm, vào độ tháng giêng có lễ hội "Lồng tồng”. + Dân tộc Mường: Trang phục là váy màu áo pắn. Các trò chơi dân gian gồm: ném còn, bắn nỏ, cồng, nhị, sáo, khèn; lễ hội đầu năm thường múa sạp, hát đồng dao, hát đối,... + Dân tộc Ê-đê: là nơi có rừng cà phê bạt ngàn. Nghề nghiệp chính là trồng lúa, hoa màu; lễ hội ăn mừng lúa mới, mọi người đánh cồng chiêng, hát xoan, uống rượu cần,... + Dân tộc Thái: Trang phục truyền thống nữ là áo ngắn bó sát người có hàng cúc bướm bạc trên hai vạt áo, chiếc khăn Piêu, thắt lưng . Món ăn truyền thống là xôi nếp, cơm lam. Lễ hội thường múa sạp, múa xòe hoa, cá suối nướng than,... Trang phục truyền thống các DTTS (tính theo thứ tự từ trái sang phải) : Mường (số 1&9), Ê-đê (số 2, 7&8), H’rê (số 3), Thái (số 4), Tày (số 5), Nùng (số 6) - Viết kịch bản: bằng thơ 4 đến 5 chữ (đối với hình thức đọc vè) hoặc bằng văn xuôi theo lời thoại của các nhân vật kết hợp thơ (đối với tiểu phẩm),... - Thẩm định kịch bản: Lãnh đạo nhà trường góp ý, bổ sung; tổ bồi dưỡng hoàn chỉnh kịch bản. Đinh Thị Minh Phượng - Trường Tiểu học Trần Phú 9
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_boi_duong_giao_luu_tieng_viet_cua_chun.doc

